✨Tống Quang Tông
Tống Quang Tông (chữ Hán: 宋光宗, 30 tháng 9, 1147 - 17 tháng 9, 1200), thụy hiệu Tuần Đạo Hiến Nhân Minh Công Mậu Đức Ôn Văn Thuận Vũ Thánh Triết Từ Hiếu hoàng đế (循道宪仁明功茂德温文顺武圣哲慈孝皇帝), tên thật là Triệu Đôn (赵惇), là Hoàng đế thứ 12 của nhà Tống và cũng là Hoàng đế thứ ba của nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Triệu Đôn là Hoàng tử thứ ba của Tống Hiếu Tông Triệu Thận với bà Thành Mục Quách Hoàng hậu. Do người anh cả của ông là Triệu Kì đều mất sớm nên ông được vua cha lập làm Hoàng thái tử năm 1171. Năm 1189, Hiếu Tông nhường ngôi, xưng Thái thượng hoàng. Triệu Đôn tức vị tức là Tống Quang Tông.
Dưới triều Quang Tông, cục diện chính trị vẫn tương đối ổn định, quan hệ ngoại giao cũng không có nhiều biến động. Tuy nhiên ở trong cung, Lý Hoàng hậu tác oai tác phúc, mê hoặc Quang Tông khiến tình thân ông và Thọ Hoàng ở cung Đức Thọ ngày một lạnh nhạt, kết quả vào năm 1194, khi Hiếu Tông qua đời, ông không đứng ra chủ trì tang lễ. Do sự việc này, Thái hoàng Thái hậu Ngô thị làm sách mệnh ép ông thoái vị, lập Hoàng tử Gia vương Khoáng lên thay, tức là Tống Ninh Tông. Quang Tông được tôn lên làm Thái thượng hoàng rồi qua đời vào năm 1200.
Làm Thân vương và Thái tử
Triệu Đôn chào đời vào ngày 30 tháng 9 năm 1147, tức ngày Ất Sửu tháng 9 ÂL năm thứ 17 Thiệu Hưng thời Tống Cao Tông tại phủ đệ Phổ An, vì khi đó phụ thân của ông còn là Phổ An Quận vương. Năm 1150, ông được vua Cao Tông ban tên là Triệu Đôn, phong chức Hữu giám môn Vệ soái phủ phó soái, thứ sử Vinh châu.
Năm 1162, Tống Hiếu Tông lên ngôi, phong Triệu Đôn làm Tiết độ sứ Trấn Thao, Khai phủ nghi đồng tam tư, tiến tước Cung vương. Tháng 3 ÂL, thụ sách. Tháng sau, được cử Lâm An doãn. Trong thời gian giữ chức, ông chú tâm vào việc chính trị, quan tâm đến cuộc sống người dân. Hiếu Tông lấy làm bằng lòng lắm.
Năm 1187, Thượng hoàng Cao Tông qua đời; Hiếu Tông từ đó sinh ra xao nhãng với chính sự, có ý truyền ngôi. Khi tang lễ vừa xong, Hiếu Tông giao cho Thái tử giải quyết công việc, lấy Nội đông môn làm Nghị sự đường. Từ năm 1188, Thái tử ra Nghị sự đường làm việc. Đầu năm 1189, nhà vua mệnh Chu Tất Đại, Lưu Chính làm Tả, Hữu thừa tướng. Không lâu sau, Hiếu Tông sai trung thư gửi đến chỗ Chu Tất Đại tờ chiếu nhường ngôi.
Ngày 18 tháng 2 năm 1189, tức ngày Nhâm Tuất tháng 2 ÂL, Hiếu Tông ngự ở điện Tử Thần làm lễ nội thiện, Triệu Đôn nhận ngôi vua. Hiếu Tông chuyển Hoàng thái hậu sang cung Từ Phúc, đổi cung ấy là cung Nhân Thọ, lại đổi cung Đức Thọ thành cung Trùng Hoa để mình về ở đấy, vẫn còn mặc đồ tang. Vua mới là Tống Quang Tông, hạ lệnh đại xá, dâng tôn hiệu cho Hiếu Tông là Chí Tôn Thọ Hoàng Thánh đế, hoàng hậu Tạ thị là Thọ Thánh Hoàng hậu. Có đạo sĩ Hoàng Phủ Thản khi được Hậu thì cho rằng người con gái này về sau sẽ là mẫu nghi thiên hạ. Khi Thản vào cung, gặp mặt Tống Cao Tông và nói về Phượng Nương, bảo hậu có tướng Quốc mẫu. Thượng hoàng tin là thực, liền cưới về làm phi cho Cung vương. Bà được phong làm Định Quốc Phu nhân. Khi Cung vương được lập làm Hoàng thái tử, hậu trở thành Thái tử phi. Hậu có tướng mạo xinh đẹp, nhưng tính tình thì chua ngoa đố kị; ngay trước mặt Cao Tông và Hiếu Tông còn dám nói chuyện đúng sai, có khi còn nói tố cáo những điều sai trái của Thái tử.
Đầu năm 1190, bởi lời gièm của Hà Đạm, Quang Tông miễn chức Tả Thừa tướng của Chu Tất Đại, dùng Lưu Chính làm Tả Thừa tướng, Vương Lận làm Khu mật sứ, Cát Bật làm Tham chính, Hồ Tấn Thần làm Thiêm thư Khu mật viện. Bốn vị đại thần dốc lòng phò chính, công việc chính trị vẫn ổn định như trước. Không lâu sau Trung thừa Hà Đạm đàn hặc khiến Vương Lận bị bãi, lại dùng Cát Bật lên thay, Hồ Tấn Thần giữ chức Tham chính.
Tháng 6 ÂL năm 1192, dùngTThượng thư bộ Lễ Trần Quỳ làm đồng tri Xu mật viện. Bấy giờ Lý Hoàng hậu kiêu căng và xa xỉ, ép Quang Tông phong tổ tiên ba đời của mình làm Vương, xây gia miếu ở kinh thành, quy mô tráng lệ, vệ binh cũng cắt xén từ thái miếu mà ra. Cuối năm đó, Hậu về thăm gia miếu, tiếp đón than thuộc Lý thị, ban thưởng 26 người; phong 170 người làm sử thần, đến môn khách họ Lý cũng được bổ làm quan. Tháng 2 năm 1193, dùng Cát Bật làm Hữu Thừa tướng, Trần Quỳ làm Tham chính, Hồ Tấn Thần tri Xu mật, Triệu Nhữ Ngu làm Đồng tri. Đến thu, thăng Nhữ ngu làm Tri Xu mật, Dư Đoan Lễ làm Đồng tri.
Mâu thuẫn giữa hai cung
Từ khi Quang Tông lên ngôi, Lý Hoàng hậu càng được thế chuyên quyền bất pháp, lại có bọn hoạn giả trong cung làm tai mắt, tha hồ tác oai tác quái. Vào cuối năm 1191, Quang Tông vì e ngại thế lực của Lý hậu nên có ý giết hết bọn nội thị để hậu cung được yên. Nhưng lũ nội thị đã sớm đánh hơi được chuyện đó, nên xin Lý hậu bảo toàn cho chúng, do vậy Quang Tông không làm gì được. Bọn nội thị lại bày mưu li gián tam cung để dễ bề lộng quyền. Nhân lúc Quang Tông mắc bệnh, Thọ Hoàng tìm ngự y bào chế thuốc bổ, chờ khi Quang Tông đến vấn an thì bắt uống. Bọn nội thị thấy thế bèn gièm pha với Lý hậu rằng :Thái thượng hợp biết bao nhiêu là thuốc, xa giá đến thì bắt uống. Uống vào nhỡ xảy ra việc gì thì tông miếu xã tắc tính thế nào?. Quang Tông có ý nghi hoặc, từ đó không muốn vào triều yết cung Trùng Hoa nữa. Một hôm nữa, Quang Tông rửa mặt, thấy cung nữ tay bưng hộp vàng đứng hầu. Quang Tông thấy đôi bàn tay của cô ta trắng nõn nà, rất ưa thích. Lý hậu nghe được, hôm sau sai nội thị đem hộp vàng đến dâng, Quang Tông mở ra thì hỡi ơi, đó là đôi bàn tay của cung nhân hôm trước. Quang Tông đồng thời cũng là vị Thái thượng hoàng cuối cùng của Nam Tống nói riêng và nhà Tống nói chung.
Gia đình
Hậu phi
thumb|Từ Ý Hoàng hậu Lý thị
- Từ Ý Hoàng hậu (慈懿皇后, 1145 - 1200), tên là Lý Phượng Nương (李鳳娘), người An Dương, cha là Khánh Viễn quân Tiết độ sứ Lý Đạo (李道). Từ nhỏ, bà có tính kiêu ngạo, hay ghen ghét. Năm 17 tuổi, được cưới cho cháu của Cao Tông Hoàng đế là Triệu Đôn làm Phi, phong hiệu là Định Quốc Phu nhân (定國夫人). Khi làm Hoàng hậu, Lý Phượng Nương tác oai tác quái, lũng đoạn triều chính, do ỷ mình sinh hạ được Hoàng tử là Triệu Khoách.
- Hoàng Quý phi (黃貴妃, ? - 1191), được phong làm Hòa Nghĩa Quận Phu nhân (和義郡夫人) khi cưới làm tỳ thiếp của Thái tử Triệu Đôn. Đến khi Quang Tông đăng vị, lập làm Quý phi (貴妃). Năm 1191, Quang Tông có việc ra khỏi cung, Hoàng Quý phi bị Lý Hoàng hậu hại chết rất thê thảm.
- Trương Quý phi (张贵妃), bị Lý Hoàng hậu đuổi khỏi cung.
- Phù Tiệp dư (符婕妤), bị Lý Hoàng hậu đuổi khỏi cung.
Hoàng tử
Trưởng Bảo Ninh quân Tiết độ sứ Triệu Đĩnh (趙梃), chết yểu, mẹ là Lý Hoàng hậu
Tống Ninh Tông Triệu Khoách (趙擴), mẹ là Lý Hoàng hậu
Công chúa
- Văn An Công chúa (文安郡主)
- Hòa Chính Công chúa (和政郡主)
- Tề An Công chúa (齊安郡主) Cả ba đều chết non. Truy tặng Công chúa vào năm Thiệu Hy thứ nhất (1190).
