✨Tống Đoan Tông
Tống Đoan Tông (chữ Hán: 宋端宗; 10 tháng 7 năm 1268 - 8 tháng 5 năm 1278), còn gọi là Tống đế Thị (宋帝昰), thụy hiệu Dụ Văn Chiêu Vũ Mẫn Hiếu hoàng đế (裕文昭武愍孝皇帝), hay Hiếu Cung Nhân Dụ Từ Thánh Duệ Văn Anh Vũ Cần Chánh hoàng đế (孝恭仁裕慈聖睿文英武勤政皇帝), tên thật là Triệu Thị (趙昰), là vị hoàng đế thứ tám và cũng là áp chót của vương triều Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Triệu Thị là con trai của vua Tống Độ Tông với bà Dương thục phi. Khi quân Nguyên áp sát Lâm An, Triệu Thị được hộ tống đến lánh nạn tại Mân Quảng. Năm 1276, sau khi kinh thành Lâm An thất thủ về tay quân Nguyên, hoàng tộc Nam Tống hầu hết bị bắt làm tù binh, Triệu Thị được lập lên làm vua tại Phúc Châu, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Nguyên. Trong ba năm 1276, 1277, 1278, quân Tống liên tiếp bại binh mất đất, ngày diệt vong đã không còn xa nữa. Vào tháng 3/1278, trong khi lẩn trách quân Nguyên, do bất cẩn, nên Đoan Tông bị ngã xuống thuyền, rơi tõm xuống nước, suýt nữa là bị chết đuối. Sau khi được cứu, vua bị cảm nước là thành bệnh, và một tháng sau, bệnh càng nặng, rồi mất. Ngôi hoàng đế thuộc về em trai ông là Vệ vương Triệu Bính.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Triệu Thị chào đời vào ngày 10 tháng 7 năm 1269 dưới thời vua cha Tống Độ Tông. Ông là con trai lớn tuổi nhất của Tống Độ Tông, song do mẹ ông là Dương thục phi không phải là chính thất nên ông cũng không được lập làm thái tử mà nhận tước Kiến quốc công.
Ngày 12 tháng 8 năm 1274, Độ Tông qua đời. Lúc bầy giờ quyền chính trong triều rơi cả vào tay Giả Tự Đạo. Do Tống đang gặp khó khăn trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, quần thần đề nghị lập Triệu Thị vì quốc gia cần có vua lớn tuổi. Nhưng Giả Tự Đạo muốn lập vua nhỏ tuổi để dễ khống chế, bèn lấy lý do lập đích tử, tôn Gia quốc công Triệu Hiển lên ngôi, tức là Tống Cung Đế, thái hoàng thái hậu Tạ thị lâm triều xưng chế. Ngày hôm sau, Thái hoàng thái hậu hạ chiếu phong Triệu Thị làm Cát vương, hoàng tử khác là Triệu Bính làm Tín vương. Đầu năm 1275, Giả Tự Đạo bị thua một trận lớn, quân Nguyên đã ở rất gần.
Đầu năm 1276, nhà Tống cử Văn Thiên Tường làm Lâm An doãn; Thiên Tường đề nghị cho hai hoàng tử Triệu Thị và Triệu Bính ra giữ đất Mân, Quảng để tính việc khôi phục về sau. Thái hoàng thái hậu không theo, nhưng cũng lệnh cho hai vương dời cung. Khi quân Đại Nguyên đã bức bách lắm rồi, tông thân lại xin một lần nữa, Thái hoàng thái hậu đành hạ lệnh dời Cát vương Thị làm Ích vương, phong chức phán Phúc châu, An phủ sứ Phúc Kiến; Tín vương dời làm Quảng vương, Phán Tuyền châu kiêm phán nam ngoại tông chánh, còn cử phò mã Dương Trấn cùng Dương Lượng Tiết, Du Như Khuê làm đề cử, đi cùng. Bá Nhan sai Phạm Văn Hổ đuổi theo hai vương. Dương Trấn nghe tin, liền từ biệt hai vương, ra hàng nhằm hoãn quân Nguyên truy kích. Bọn Lượng Tiết lại phò hai vương chạy trốn trong vùng núi suốt 7 ngày. Tướng Tống là Trương Toàn lại đem hơn 10 người đến cứu được hai vương rồi cùng chạy ra Ôn châu; giữa đường gặp các đại thần Lục Tú Phu, Tô Hữu Nghĩa... Lại sai triệu Tả thừa tướng Trần Nghi Trung ở Thanh Áo, Trương Thế Kiệt ở Định Hải. Các tướng cùng nhau tôn Triệu Thị làm Thiên hạ binh mã đô nguyên soái phát binh trừ hại, Tú vương Dữ Dịch làm sát phóng, An phủ sứ Phúc Kiến. Lúc đó Thái hoàng thái hậu bị người Nguyên khống chế, viết chiếu triệu Cát vương về. Trần Nghi Trung bèn triệu tập lực lượng, đưa hai vương vào Mân để mưu đồ khôi phục.
Lúc bầy giờ Thừa tướng Văn Thiên Tường thoát khỏi tay người Nguyên, chạy về nam. Ngày 14 tháng 6 năm 1276 (tức Ất Mùi tháng 5 ÂL), Trần Nghi Trung và Trương Thế Kiệt cùng tôn Triệu Thị làm hoàng đế, tức là Tống Đoan Tông, đặt niên hiệu là Cảnh Viêm, gọi vua cũ (Cung Đế) là Hiếu Cung Ý Thánh hoàng đế. Ông tiến phong Quảng vương Bính làm Vệ vương, tôn mẹ Dương thục phi làm Hoàng thái phi, lâm triều nghe chính; Trần Nghi Trung, Lý Đình Chi là Tả, Hữu thừa tướng; Trần Văn Long, Lưu Phất làm Tham chính, Trương Thế Kiệt làm Xu mật phó sứ, Lục Tú Phu làm Giám thư Khu mật, lệnh cho Ngô Tuấn, Triệu Tấn, Phó Trác, Lý Giác, Địch Quốc Tú phân thành các đường cùng tiến quân, cải Phúc châu thành phủ Phúc An, Ôn châu thành phủ Lý An.
Lúc bấy giờ Văn Thiên Tường đã từ Trấn Giang về tới, Đoan Tông bèn dùng ông ta làm Hữu thừa tướng, tri Xu mật. Thiên Tường vốn bất hòa với Trần Nghi Trung nên không nhận chức, Đoan Tông bèn đổi làm Xu mật sứ, Đồng đô đốc. Ông lại sai các tướng đến Giang Hoài chiêu mộ hào kiệt. Ở lộ Giang Tây, Ngô Tuấn tập hợp quân ở Quảng Xương, lấy ba huyện Nam Phong, Nghi Hoàng, Ninh Đô. Tống Đoan Tông muốn tới Chiêm Thành nhưng không được.
Sau đó Đoan Tông về Quảng châu rồi Cương châu. Ngày 8 tháng 5 năm 1278 (tức Mậu Thìn tháng 4), ông qua đời ở Cương châu, khi đó mới có 11 tuổi, an táng tại lăng Vĩnh Phúc, miếu hiệu Đoan Tông. Quần thần cùng nhau tôn Vệ vương Bính lên ngôi, tức là Tống Thiếu Đế. Một năm sau, triều Tống diệt vong.
