✨Tiếng Nùng
Tiếng Nùng là một nhóm các ngôn ngữ thuộc nhánh Tai Trung tâm trong ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai. Các cư dân nói nhóm ngôn ngữ này được chính phủ Việt Nam phân loại là người Nùng. Ngôn ngữ này được nói chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng, Việt Nam.
Phân bố
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Nùng ở Việt Nam có dân số 968.800 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 7 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố, tập trung tại các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang, Đắk Lắk, Hà Giang, Thái Nguyên, Lào Cai, Đắk Nông, Bắc Kạn, Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai, Tuyên Quang, Yên Bái, Gia Lai. Số người nói tiếng Nùng có thể nhỏ hơn số liệu trên chút ít.
Các nhóm địa phương của người Nùng như Nùng An, Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Dín, Nùng Xuồng có sự khác biệt ít nhiều về ngôn ngữ, bao gồm ngữ âm và một phần từ vựng giữa tiếng nói các địa phương. Tiếng Nùng An phát âm gần như tiếng Cao Lan – Sán Chay và tiếng Giáy. Tiếng nói người Nùng Phủ được ảnh hưởng bởi âm sắc của tiếng Tày.
Các phương ngữ
thumb|right|Bản đồ phân bố các ngôn ngữ Nùng, Tày, Tráng thuộc nhóm Tai trung tâm tại Việt Nam và Trung Quốc. Tiếng Nùng bao gồm nhiều phương ngữ, một vài trong số đó được liệt kê như sau:
Cao Bằng
*Nùng An được nói ở Quảng Uyên, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Giống những người nói tiếng Tráng ở Long An (Long'an 隆安), huyện Tĩnh Tây (Jingxi 靖西县), tỉnh Quảng Tây, Nùng An mang cả hai đặc điểm của Tai Trung Tâm và Tai Bắc.
Lạng Sơn
Nùng Phản Slình được nói ở huyện Cao Lộc, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn và huyện Yên Thế, Lạng Giang của tỉnh Bắc Giang. Phản/Fản Slình là một từ tiếng Nùng tương đương với Wancheng (萬承) trong tiếng Hán (Vạn Chửng trong tiếng Việt). Nùng Phản Slình có khoảng 100.000 người nói (theo Freiberger, 1976a). Tư liệu của Freiberger (1976a) dựa trên phương ngữ Nùng Phạn Slinh được nói bởi những người tị nạn từ tỉnh Bắc Giang đã di cư đến tỉnh Lâm Đồng vào năm 1954 (khi đó gọi là tỉnh Tuyên Đức, bao gồm Đà Lạt và các huyện Đơn Dương, Đức Trọng và Lạc Dương). Freiberger (1976) cũng ghi nhận sự hiện diện của người Nùng Phạn Slinh tị nạn tại tỉnh Biên Hòa và tỉnh Long khánh, đều là các đơn vị hành chính cũ của miền Nam Việt Nam. Nùng Cháo được nói ở huyện Văn Quan, Văn Lãng, Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, huyện Nà Rì tỉnh Bắc Cạn và huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Phương ngữ Nùng Cháo tương đồng với Tráng Long Châu của William J. Gedney. *Nùng Inh được nói ở huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, Bình Gia, Văn Quang tỉnh Lạng Sơn. Phương ngữ Nùng Inh tương đồng với Nùng Phía Tây ở Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
Lào Cai
*Nùng Dín được nói ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần thuộc tỉnh Hà Giang và Bắc Hà, Mường Khương thuộc tỉnh Lào Cai.
Khác
Nùng Vẻn (En) là một ngôn ngữ trước kia không được phân loại ra khỏi các ngôn ngữ Tai Trung Tâm. Cuối thập niên 1990, nhà ngôn ngữ học Hoàng Văn Ma đầu tiên nhận ra nó không phải là một ngôn ngữ Tai. Năm 1998, Hoàng Văn Ma và Jerold A. Edmondson phát hiện đó là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Kadai (Kra). Các nhà nghiên cứu thẩm định rằng Nùng Vẻn có quan hệ gần gũi nhất với tiếng Bố Ương (Buyang, 布央语). Các cư dân nói tiếng Nùng Vẻn được chính phủ Việt Nam phân loại là người Nùng.
Ngữ âm
Sau đây là các âm của tiếng Nùng:
Phụ âm
Nguyên âm
Thanh điệu
Tiếng Nùng có sáu thanh điệu:
Từ vựng
Từ thuần Tày Nùng
Các từ thuần Tai chiếm tuyệt đại đa số trong kho từ vựng và thường thuộc vốn từ cơ bản, có mặt ở tất cả các lớp từ, nhất là các từ chỉ các hiện thượng thiên nhiên, các bộ phận cơ thể, các hoạt động, tính chất...
Mừ (tay), nả (mặt), đông/đung (rừng), tha vằn (mặt trời), kin (ăn), pay (đi), nòn (ngủ), hảy (khóc), đeng (đỏ), đay (tốt), slâư (trong, sạch), cau (tao)...
Từ mượn tiếng Hán
Các từ mượn tiếng Hán đi vào vốn từ vựng tiếng Tày Nùng vào những thời kỳ khác nhau. Đối với nhiều từ, người Tày Nùng hiện nay không ý thức được đấy là những từ mượn gốc Hán nữa. *Số từ: ết (một), nhì (hai), slam (ba), pét (tám)...
Động vật, sự vật: mạ (ngựa), an (yên ngựa), tắng (ghế), chỉa (giấy)... Từ chỉ tính chất: quảng (rộng), đáo (hồng)... Từ chỉ hoạt động: xỉnh (mời), chiềng (thưa), sleng (sinh), sloán (tính)... Từ xưng hô: nỉ (cậu, anh), ngỏ (tôi, tớ)...
Từ mượn tiếng Việt
Từ mượn tiếng Việt gồm hai loại lớn: từ thuần Việt và từ Việt gốc nước ngoài (chủ yếu là từ Hán-Việt) Các từ mượn thuần Việt là những từ thường dùng hàng ngày: hòm (hòm), khóa (khóa), đồng hồ (đồng hồ), xe đạp (xe đạp)... Các từ mượn Hán-Việt là các thuật ngữ thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật và các hiện tượng xã hội: chính phủ, hành chính, toán, văn, công nhân, điện, mậu dịch, bệnh viện, nông trường...
Đại từ nhân xưng
Các đại từ số ít được dùng trong những cảnh huống khác nhau.
Khỏi là đại từ được người ở vị trí thấp sử dụng để xưng với những người ở vị thế cao hơn, có giá trị biểu cảm lịch sự, kính trọng.
Câu/Cau tạo thành cặp xưng hô tương liên Câu/Cau (tao) - Mầư/Mưng (mày). Tùy theo vị thế của người sử dụng, câu/cau có sắc thái biểu cảm khác nhau: thân mật, suồng sã...
So sánh
So sánh với một số ngôn ngữ Tai Trung Tâm
Chữ viết
Người Nùng dùng chữ Hán hay chữ Nôm Nùng (được phát triển khoảng thế kỷ 17) để ghi chép thơ ca và truyện cổ dân gian. Bài Mo Nùng được ghi bằng chữ Nôm trên giấy bản, gia phả nhiều dòng họ còn giữ lại cũng được ghi bằng chữ Nôm Nùng
Nùng Phản Slình Bắc Giang gồm sáu thanh. Tất cả sáu thanh đều đọc như tiếng miền bắc Việt Nam, trừ dấu ngã (◌̃). Dấu (◌̃) trong tiếng Nùng thì âm hơi cao lên với tắc âm thanh môn sau.Sáu thanh đó là: (1) cao lên (◌́), (2) cao lên với tắc âm thanh môn ở cuối chữ (◌̃), (3) trung (bằng) không dấu, (4) thấp đi lên (◌̉), (5) trung (thấp) xuống (◌̀), và (6) thấp với tắc âm thanh môn (◌̣). ;Đoạn văn mẫu Một đoạn văn mẫu từ Sáng Thế Ký 1 (Genesis 1) trong Kinh Thánh:
Chữ Nùng Latinh 1961
Chữ Tày Nùng Latinh được chính phủ Việt Nam phê chuẩn năm 1961 cho khu tự trị Việt Bắc (1956-1975). Chữ Tày Nùng Latinh được xây dựng dựa trên cơ sở chữ quốc ngữ: cùng con chữ, cùng một cách ghép vần đối với những âm tiết giống nhau. Bảng chữ cái Tày Nùng chỉ được dạy trong các trường tiểu học trong một thời gian ngắn vào thập niên 1960, rồi sau đó rơi vào quên lãng. Bảng chữ cái này không được truyền bá sử dụng trong cộng đồng.
