✨Nguyễn Lộ Trạch
Nguyễn Lộ Trạch (1853? - 1895?), tên tự là Hà Nhân, hiệu là Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu, Hồ Thiên Cư Sĩ, Bàn Cơ Điếu Đồ, là nhà văn và là nhà cách tân đất nước Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX.
Thân thế
Nguyễn Lộ Trạch sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Tổ tiên ông trước ở vùng châu Hoan - châu Ái (tức vùng Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay), đến thế kỷ XVI, theo tướng Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Hóa. Cha ông là Nguyễn Thanh Oai, đỗ Tiến sĩ năm 1843 dưới triều vua Thiệu Trị (cùng khoa với danh thần Phạm Phú Thứ), từng giữ chức quyền Thượng thư bộ Hình, Tổng đốc Ninh Thái (gồm Bắc Ninh và Thái Nguyên).
Luôn lo cho vận nước
Nguyễn Lộ Trạch là người đọc nhiều sách, biết nghề thuốc, có kiến thức sâu rộng, nhưng không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường ngao du khắp các tỉnh miền Trung, tìm người cùng chí hướng kết giao, được người đương thời gọi là "cậu ấm tàng tàng".
Năm Tự Đức thứ 30 (Đinh Sửu 1877), kỳ thi Hội Mặc dù, "Thời vụ sách" không được triều đình quan tâm đến, nhưng cũng đã gây được tiếng vang lớn trong giới sĩ phu. Ông viết bài luận này cốt để khơi gợi cho vua Thành Thái và các quan đầu triều gấp lo phục hưng đất nước. Khi được công bố, nó đã gây được tiếng vang rộng rãi, được đông đảo sĩ phu và những người có tư tưởng cách tân tìm đọc và tán thưởng, trong số đó có Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Phạm Hàm, Trương Gia Mô,...
Qua đời
Về cuối đời, ông lại tiếp tục ngao du đó đây, tìm người tài giỏi kết bạn tri âm. Năm Ất Mùi (1895), ông làm một chuyến Nam du vào Phan Thiết, trung tâm tỵ địa của nhóm sĩ phu Nam Trung Bộ thuở ấy. Ông còn tính chuyện xuất dương nhưng chưa thực hiện được đã lâm bệnh nặng rồi mất tại Bình Định vào năm đó (1895), lúc 42 tuổi.
Năm 1957, con cháu Nguyễn Lộ Trạch đã đưa di cốt ông từ Bình Định về táng tại nghĩa trang của làng Kế Môn, thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mộ ông hình tròn đơn giản, đường kính 3 m, thành cao 40 cm, dày 20 cm; và đã được nhà nước công nhận là di tích quốc gia theo quyết định số 52/2001/QĐBVHTT ngày 28 tháng 12 năm 2001.
Tác phẩm
Tác phẩm của Nguyễn Lộ Trạch phần lớn đều bằng chữ Hán, gồm có: *Quỳ Ưu lục*: là tập hợp các bài văn nghị luận của ông (trong đó có "Thời vụ sách I, II" và "Thiên hạ đại thế luận"), do tự tay ông sắp xếp vào năm 1884. Kỷ trào lục (Tự nhạo mình như người nước Kỷ) Kỳ Am dã thoại (Những lời quê mùa của Kỳ Am) Kỳ Am thi văn toàn tập** (Toàn tập thơ văn của Kỳ Am) *Quốc ngữ thị phụ giai ẩn từ (Bài ca quốc ngữ khuyên vợ cùng đi ẩn).
Song phần lớn thơ văn trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại tập Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch di văn (Những bài văn còn lại của Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch) do người đời sau góp nhặt. Trong đó có Quỳ Ưu lục, một số thư từ và 15 bài thơ.
Nhìn chung thơ ông mang âm hưởng trầm buồn. Văn nghị luận của ông, ngoài sự nhiệt huyết ra còn hấp dẫn người đọc ở những ví dụ giàu sức biểu cảm, vừa tác động vào cảm xúc, vừa có ý vị trào lộng hài hước, khiến người đọc không ai có thể thờ ơ,...
Ghi công Nguyễn Lộ Trạch, ở thành phố Nha Trang (Khánh Hòa), thành phố Huế (Thừa Thiên Huế), quận Tân Phú (Thành phố Hồ Chí Minh), quận Hải Châu (thành phố Đà Nẵng), thành phố Hải Dương (Hải Dương)... đều có con đường mang tên ông.
Sách tham khảo chính
Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Nguyễn Lộ Trạch" in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004. Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ "Nguyễn Lộ Trạch". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. *Hoàng Hữu Yên, Văn học thế kỷ XIX, mục: "Nguyễn Lộ Trạch" Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2994.
