✨Mã Hy Ngạc
Mã Hy Ngạc (馬希萼), gọi theo thuỵ hiệu là Sở Cung Hiếu vương (楚恭孝王), là quân chủ thứ năm của nước Sở thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông tiến hành chiến tranh nhằm tranh ngôi Sở vương với em là Mã Hy Quảng, giành thắng lợi sau ba năm chiến đấu. Tuy nhiên, sau đó ông bị phế truất rồi trở thành quan của Nam Đường.
Thân thế
Mã Hy Ngạc là con trai thứ 20 của Mã Ân- người lập ra nước Sở, và có em cùng mẹ là Mã Hy Sùng.
Khi quân chủ thứ ba của Sở là Mã Hy Phạm (huynh của Mã Hy Ngạc) mất vào năm 947, Mã Hy Ngạc lúc này có chức tước là Vũ Bình tiết độ sứ- tri Vĩnh châu sự. Tướng tá của Sở thảo luận về việc chọn người kế vị, Đô chủ huy sở Trương Thiếu Địch (張少敵), Đô áp nha Viên Hữu Cung (袁友恭) ủng hộ Mã Hy Ngạc do ông là người lớn tuổi nhất trong số các huynh đệ khi đó. Do Mã Ân khi qua đời từng di mệnh rằng các con phải truyền lại ngôi vị cho huynh đệ Trong khi đó, Thường trực đô chỉ huy sứ Lưu Ngạn Thao (劉彥瑫), Thiên Sách phủ học sĩ Lý Hoằng Cao (李弘皋), Đặng Ý Văn (鄧懿文), Tiểu môn sứ Dương Địch (楊滌) đều muốn lập em cùng mẹ với Mã Hy Phạm là Vũ An tiết độ phó sứ (Mã Hy Phạm là tiết độ sứ) Mã Hy Quảng. Trương Thiếu Địch nói rằng "Vĩnh châu lớn tuổi và tính khí cứng cỏi, rõ ràng sẽ không chịu ở bên dưới Đô uý. Nếu lập Đô uý, cần phải nghĩ kế lâu dài để chế ngự Vĩnh châu khiến ông ta thuận theo không thể hành động. Nếu không, xã tắc sẽ lâm nguy." Thiên Sách phủ học sĩ Thác Bạt Hằng (拓拔恆) thì nói "Tam thập ngũ lang tuy xử lý chính sự quân phủ, song Tam thập lang lớn tuổi hơn, thỉnh cầu khiển sứ giả dùng lễ nhượng lại. Nếu không, tất sẽ phát sinh tranh đoan." Tuy nhiên, đám Lưu Ngạn Thao nói rằng "Ngày nay, quân chính trong tay, trời cho không giữ mà để người khác có được, thì sau này chúng ta có thể an toàn được không ?". Mã Hy Quảng nhu nhược, không thể tự quyết. Đến ngày Ất Mùi (11) tháng 5, tức ngày 2 tháng 6, đám Lưu Ngạn Thao tuyên bố theo di mệnh của Mã Hy Phạm lập Mã Hy Quảng làm quân vương. Trương Thiếu Địch nhận định tai hoạ sắp đến, ông và Thác Bạt Hằng đều cáo bệnh không ra ngoài.
Tranh chấp với Mã Hy Quảng
Tháng 8 năm Kỷ Dậu (949), Mã Hy Ngạc đem quân tiến công Mã Hy Quảng. Ông huy động đinh tráng Lãng châu làm hương binh, tạo hiệu Tĩnh Giang quân, cho đóng bảy trăm chiến hạm, đem quân tấn công Đàm châu. Thê của Mã Hy Ngạc là Uyển thị can gián rằng "Huynh đệ đánh lẫn nhau, thắng hay bại đều bị người ta cười chê", song ông không nghe và dẫn binh đến Trường Sa. Mã Hy Quảng ban đầu định đầu hàng, song do có khuyến gián nên đổi ý và phái Vương Uân (王贇) làm Đô bộ thự chiến trạo chỉ huy sứ, để Lưu Ngạn Thao làm giám quân. Ngày Kỷ Sửu (18) cùng tháng, tức 13 tháng 9, Mã Hy Ngạc đại bại tại Bộc Xạ châu, bị thu mất ba trăm chiến hạm. đánh bại Mã Hy Ngạc, bắt được 300 thuyền. Vương Uân truy kích Mã Hy Ngạc, sắp đuổi kịp thì Mã Hy Quảng khiển sứ triệu về nói "Chớ làm hại ngô huynh.", Vương Uân phải dẫn quân về. Mã Hy Ngạc từ hồ Xích Sa đi xuồng về trị sở, Uyển thị khóc nói "Hoạ sắp đến rồi, ta không nỡ thấy" rồi nhảy xuống giết tự sát. Trong khi đó, đệ của Mã Hy Ngạc là Tĩnh Giang tiết độ sứ Mã Hy Chiêm (馬希瞻) khiển sứ giả khuyến gián cả Mã Hy Ngạc và Mã Hy Quảng song không được., cũng như người Man tại Mai Sơn, muốn cùng tấn công Mã Hy Quảng. Người Man vốn biết Trường Sa có nhiều của cải, tranh nhau xuất binh, họ cùng tấn công Ích Dương. Mã Hy Quảng khiển Chỉ huy sứ Trần Phan (陳璠) kháng cự, song Trần Phan thất bại và tử chiến. Mã Hy Quảng tiếp tục dẫn người Man tấn công Địch Điền, đến ngày Mậu Tuất (3) tháng 8, tức 17 tháng 9, thì phá được thành giết tướng trấn thủ là Trương Diên Tự (張延嗣), Mã Hy Quảng phái Hoàng Xử Siêu (黃處超) đi cứu song cũng chiến bại và tử nạn trước quân Mã Hy Ngạc.. Nam Đường còn cho Sở châu thứ sử Hà Kính Thù (何敬洙) đem binh giúp Mã Hy Ngạc. Mã Hy Quảng sau đó cáo cấp với Hậu Hán, nói rằng Kinh Nam-Nam Hán-Nam Đường liên mưu muốn phân chia đất của Sở, xin Hậu Hán phát binh đồn trú tại Lễ châu nhằm cắt đứt đường Nam Đường và Kinh Nam viện trợ cho Mã Hy Ngạc., Chu Tiến Trung dẫn binh đến hợp. Tướng quân của Mã Hy Quảng là Thôi Hồng Liễn (崔洪璉) chiến bại, phải chạy về Trường Sa. Mã Hy Ngạc tiếp tục tiến công Nhạc châu, Thứ sử Vương Uân chống cự, năm ngày chưa chiếm được. Mã Hy Ngạc phái người nói với Vương Uân "Công không phải là thần tử của Mã thị sao? Không thờ ta, muốn thờ nước khác sao? Là thần tử mà lại mang hai lòng, không nhục với tiên nhân sao?". Vương Uân nói rằng cha mình là công thần của Sở, rằng mình thường mơ thấy Nam Đường nhân thời cơ chiếm Sở, rằng nếu Mã Hy Ngạc bãi binh, huynh đệ hữu hảo như trước thì xin phụng sự đến chết. Mã Hy Ngạc hổ thẹn, bèn dẫn binh về. Sau khi cướp bóc tại Tương Âm, Mã Hy Ngạc đóng tại phía tây sông Tương, Chu Tiến Trung dẫn binh từ Ngọc Đài đến hội. đẳng quân tiết độ sứ, Sở vương, chặt Lý Hoằng Cao và các quan viên khác cho binh sĩ ăn. Đến ngày Mậu Thân (15) cùng tháng, tức 25 tháng 1 năm 951, thứ sử, song cho đem quân đồn trú tại Viên châu, để chờ thời cơ tấn công.
Mã Hy Ngạc sau khi chiếm được Trường Sa thì đắc chí, nhớ đến nhiều thù xưa, chém giết vô độ, ngày đêm say rượu hoang dâm, đem mọi sự vụ quân phủ uỷ thác cho Mã Hy Sùng. Mã Hy Sùng cai quản dựa theo cảm tính, khiến hệ thống pháp luật vấn loạn. Hơn nữa, phủ khố đã hết do loạn binh cướp bóc, nên họ tịch thu tài sản của dân để thưởng cho sĩ tốt, song sĩ tốt vẫn oán trách. Tuy tướng tá cũ của Lãng châu theo Mã Hy Ngạc đến Trường Sa, song họ cũng không phấn khởi, có sự ly tâm. Tiểu môn sứ Tạ Ngạn Ngung (謝彥顒) vốn là gia nô của Mã Hy Ngạc, do có diện mạo nên được Mã Hy Ngạc sủng ái, đến mức ngồi lẫn với thê thiếp của Mã Hy Ngạc, do đó cậy thế hống hách. Trong yến tiệc tại phủ, Tạ Ngạn Ngung nắm binh tại cổng ngoài, được Mã Hy Ngạc cho ngồi trên các tướng lĩnh, các tướng lĩnh đều oán giận. Mã Hy Sùng cũng bực bội với Tạ Ngạn Ngung. thứ sử, trong khi cho các tướng lĩnh là Từ Uy (徐威), Trần Kính Thiên (陳敬遷), Lỗ Công Quán (魯公館), và Lục Mạnh Tuấn (陸孟俊) đem quân lập trại ở phía tây bắc nhằm đề phòng bị quân Lãng châu tấn công. Tuy nhiên, các tướng lĩnh và sĩ tốt thấy Mã Hy Ngạc không thăm hỏi phủ dụ thì oán giận, mưu làm phản. Ngày Mậu Dần (19) tháng 9, tức 22 tháng 10, quan sát sứ, Trung thư lệnh, trấn giữ Hồng châu-thủ phủ Giang Nam Tây đạo, và vẫn cho giữ tước Sở vương.

**Bạch Sùng Hy** **白崇禧** | |
x|} |