✨Lưu Thịnh
Lưu Thịnh (; 920–958), tên ban đầu là Lưu Hoằng Hi (), gọi theo thụy hiệu là Nam Hán Trung Tông, là hoàng đế thứ ba của nước Nam Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc và là con thứ tư của Nam Hán Cao Tổ Lưu Nghiễm. Ông đã ra tay ám sát anh thứ 3 là Thương hoàng đế Lưu Phần rồi kế vị.
Thân thế
Lưu Hoằng Hi là con trai thứ tư của Hoàng đế Lưu Nham của Nam Hán. Do anh cả Lưu Diệu Xu (劉耀樞) và anh thứ hai Lưu Quy Đồ (劉龜圖) (được phong vương năm 932) mất sớm, anh thứ 3 Lưu Hoằng Độ trở thành người được chọn kế vị của Lưu Nham. và đưa Lưu Hoằng Hy đến trấn Dong châu nhằm lập Lưu Hoằng Xương. Tuy nhiên, khi Lưu Nham hỏi ý Sùng Văn sứ Tiêu Ích (蕭益), người này nói rằng "nên lập con trưởng, nếu không tất loạn", do vậy Lưu Nham ngưng dự định. Sau khi Nam Hán Cao Tổ mất, Lưu Hoằng Độ lên ngôi hoàng đế. Sang năm Kỉ Tị (945), Lưu Thịnh giết Thiều vương Lưu Hoằng Nhã (劉弘雅); rồi giết luôn bọn lực sĩ Lưu Tư Triều, Lâm Thiếu Cường, Lâm Thiếu Lương, Hà Xương Diên. Do Tả bộc xạ Vương Phiên khi xưa cùng với Cao Tổ mưu lập Lưu Hoằng Xương, Lưu Thịnh phái ông ta đi làm thứ sử Anh Châu, đến nơi thì ban chết. Theo tường thuật, sau những sự việc đó, không chỉ các vương đệ khác của Lưu Thịnh mà ngay cả các triều thần đều khiếp sợ ông ta cũng như lo lắng cho sự an nguy của bản thân. Năm Bính Ngọ (946), Trần Đạo Tường thấy bọn Lưu Tư Triều bị giết thì bất an, Đặc tiến Đặng Thân (鄧伸) cảnh báo Trần Đạo Tường có thể bị diệt như Hàn Tín thời Hán, Lưu Thịnh biết chuyện thì lập tức cho tiêu diệt Trần Đạo Tường cùng thân thuộc.
Đến tháng 2 năm Đinh Mùi (947), do lo sợ các em sẽ tranh đoạt hoàng vị với các hoàng tử của mình sau này, Lưu Thịnh đã giết chết liên tiếp 8 người em, bao gồm Tề vương Lưu Hoằng Bật, Quý vương Lưu Hoằng Đạo, Định vương Lưu Hoằng Ích, Biện vương Lưu Hoằng Tế, Đồng vương Lưu Hoằng Giản, Ích vương Lưu Hoằng Kiến, Ân vương Lưu Hoằng Vĩ, Nghi vương Lưu Hoằng Chiếu, đồng thời cho giết hết những con trai của họ, nạp con gái của họ sung vào hậu cung (Theo tường thuật, việc Lưu Thịnh tiêu diệt các hoàng đệ là mưu của Cam Tuyền cung sứ Lâm Diên Ngộ.) Ông còn cho xây dựng ly cung với trên 1000 gian, dùng châu báu để trang trí. Ông cũng cho lập ra các hình phạt hành quyết cực kì tàn khốc như "hoạch thang" (cho vào vạc sôi), "thiết sàng" (cho vào giường sắt nóng đỏ), "khô dịch" (cắt xẻo), gọi là "sinh địa ngục".
Năm Mậu Thân (948), Lưu Thịnh sai Chung Doãn Chương (鍾允章) đi cầu hôn nước Sở. (vợ chính của Cao Tổ là chị em gái của Sở vương Mã Hi Quảng.) Sở vương Mã Hi Quảng từ chối khiến Lưu Thịnh tức giận, ông hỏi Chung Doãn Chương "Mã công có thể kinh lược đất Nam không", Chung Doãn Chương nói rằng hoàng thất nước Sở tranh đoạt quyền lực nên có thể an tâm, ông nhận định Mã Hy Quảng nhu nhược bủn xỉn còn binh sĩ Sở tử vong nhiều sau một thời gian dài nội chiến và do vậy quyết định tấn công Sở. Ngày Tân Tị (7) tháng 12 cùng năm, tức 8 tháng 1 năm 949, Lưu Thịnh bổ nhiệm Nội thường thị Ngô Hoài Ân (吳懷恩) làm Khai phủ nghi đồng tam ti, Tây bắc diện chiêu thảo sứ, đem binh đánh Sở. Ngô Hoài Ân đánh bại Chỉ huy sứ Từ Tri Tân (徐知新) của Sở, đoạt Hà châu và Chiêu châu cho Nam Hán.
Năm Tân Hợi (951), nước Sở xảy ra tranh đoạt quyền lực trong vương tộc, mất nước về tay Nam Đường. Tuy nhiên, Mã Hy Ẩn vẫn kiểm soát được trấn Tĩnh Giang với chức vụ tiết độ phó sứ. Lưu Thịnh bổ nhiệm Nội thị sứ Ngô Hoài Ân làm Tây bắc chiêu thảo sứ, đem binh đến biên giới với Tĩnh Giang, do thám nhằm chiếm lĩnh. Trong khi đó, cựu vương Mã Hy Ngạc phái Bành Ngạn Huy (彭彥暉) đến Quế châu nhậm chức, khiến Mã Hy Ẩn tức giận, do vậy Mã Hy Ẩn bí mật triệu Mông châu thứ sử Hứa Khả Quỳnh đến Quế châu, Hứa Khả Quỳnh có thể đẩy lui Bành Ngạn Huy khỏi thành. Ngô Hoài Ân nhân cơ hội này chiếm được Mông châu, tiến binh xâm lược, cướp phá khu vực còn lại của Tĩnh Giang, khiến Mã Hy Ẩn và Hứa Khả Quỳnh lo sợ, song họ không có sách lược nào để ứng phó. Sau đó, Lưu Thịnh viết thư cho Mã Hy Ẩn, nói rằng mục đích của mình là cứu viện Mã Hy Ẩn:
Mã Hy Ẩn nhận được thư, cùng liêu tá nghị hàng, song không thể quyết định ngay. Ngày Bính Dần (8) tháng 11, tức 9 tháng 12, Ngô Hoài Ân dẫn binh bao vây dưới thành, Mã Hy Ẩn và Hứa Khả Quỳnh bỏ thành và trốn thoát đến Toàn châu. Sau đó, Ngô Hoài Ân có thể đoạt không chỉ Quế châu mà còn cả phần còn lại của Tĩnh Giang, Nam Hán từ đây cai quản toàn bộ lãnh thổ Lĩnh Nam. Đến tháng chạp, Lưu Thịnh sai Nội thị tỉnh thừa Phan Sùng Triệt (潘崇徹) và tướng quân Tạ Quán (謝貫) đem binh chiếm Sâm châu từ tay Nam Đường.
Sau khi Ngô vương Quyền từ trần, con là Ngô Xương Ngập được lập. Sau khi Ngô Xương Ngập mất, em là Ngô Xương Văn được lập. Trong tháng 1 năm Giáp Dần (954), Ngô Xương Văn sai người sang Nam Hán, Nam Hán phong Ngô Xương Văn là Tĩnh Hải tiết độ sứ, kiêm An Nam đô hộ. tiết độ sứ, trấn giữ Ung châu. Do Lưu Hoằng Bật và Lưu Hoằng Trạch đều chết tại Ung châu, Lưu Hoằng Mạc cố gắng từ chối và xin làm túc vệ, song Lưu Thịnh từ chối. Khi đến trấn, Lưu Hoằng Mạc ủy thác chính sự cho liêu tá, cả ngày uống rượu, cầu cúng quỷ thần. Có thư dâng lên Lưu Thịnh cáo buộc Lưu Hoằng Mạc mưu phản, ngày Mậu Ngọ (15) tháng 4, tức 19 tháng 5, Lưu Thịnh sai Lâm Diên Ngộ đem rượu độc đến Hùng Vũ ban cho Lưu Hoằng Mạc.
Năm Bính Thìn (956), Lâm Diên Ngộ từ trần, quốc nhân chúc mừng lẫn nhau. Khi bệnh tình của Lâm Diên Ngộ xấu đi, ông ta tiến cử Nội cấp sự Cung Trừng Xu (龔澄樞) thay thế, Lưu Thịnh bổ nhiệm Cung Trừng Xu đứng đầu Thừa tuyên viện và Nội thị tỉnh.
Năm Đinh Tị (957), Lưu Thịnh hay tin Hậu Chu nhiều lần đánh bại Nam Đường, ông lo ngại nên sai sứ triều cống Hậu Chu, song các sứ giả bị chặn tại Hồ Nam (đương thời do Chu Hành Phùng cai quản). Lưu Thịnh bèn chuẩn bị chiến hạm, vũ khí nhằm phòng thủ trước một cuộc xâm chiếm của Hậu Chu, nhưng không lâu sau lại nhân lúc mình còn sống mà bắt đầu ra sức hưởng lạc, tiêu xài phung phí. Ông từng vênh váo mà nói rằng "thân ta được miễn, may thay, sao phải lo cho hậu thế!"
Ngày Tân Tị (3 tháng 8) năm Mậu Ngọ, tức 18 tháng 9 năm 958, Lưu Thịnh mắc bệnh qua đời, thọ 39 tuổi. Con trưởng là Lưu Kế Hưng tức đế vị, đổi tên là Sưởng.
