✨Lợn Kiềng Sắt
Lợn Kiềng Sắt là một giống lợn bản địa Quảng Ngãi có tên gọi phổ biến là lợn Cỏ, theo cách gọi của người Hrê gọi là lợn Kiềng Sắt hay lợn cúng Giàng chúng có nguồn gốc tại xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ là một trong những nơi được xem là quê gốc của giống lợn này Lợn Kiềng Sắt được nuôi chủ yếu bởi ba cộng đồng người dân tộc Người Hrê, người Kor, người Kdong, tên gọi của chúng đến nay chưa rõ lý do, khi nghe hỏi vì sao gọi là lợn Kiềng Sắt thì nhiều già làng cho biết rằng "Khi còn thấp như bụi cây nhỏ ngoài rừng thì đã nghe gọi tên này rồi".
Chúng có những đặc điểm quý như dễ nuôi, khả năng chống chịu bệnh tốt, không kén ăn, chi phí đầu tư nuôi thấp, chất lượng thịt thơm ngon. Hiện nay số lượng lợn Kiềng Sắt còn rất ít, phân bố rải rác ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, tập trung chủ yếu ở một số xã thuộc 2 huyện Ba Tơ và Sơn Tây. Cho đến nay, ở nhiều vùng của tỉnh Quảng Ngãi, người dân thuộc các dân tộc thiểu số vẫn chỉ nuôi và dùng lợn Kiềng Sắt để cúng vào các dịp lễ, tết khi thực hiện các nghi lễ và tập quán văn hoá. Giống lợn kiềng sắt nguyên gốc được ví gọi là lợn quý cúng giàng.
Đặc điểm
Lợn Kiềng Sắt có đặc điểm ngoại hình nổi bật là lông đen tuyền toàn thân, chân ngắn và nhỏ, thân ngắn và thon. Ưu điểm chính của lợn Kiềng Sắt là khả năng thích nghi cao với môi trường, tính chống chịu bệnh tốt, sử dụng được các loại thức ăn thô, nghèo chất dinh dưỡng, chi phí đầu tư nuôi thấp, chất lượng thịt thơm ngon. Nhược điểm lớn của các giống lợn bản địa này là tầm vóc nhỏ, năng suất thấp, khả năng sinh trưởng không cao so với các giống lợn ngoại nhập Mõm dài, tai vểnh, lưng thẳng là những đặc điểm để phân biệt giống lợn này với đồng loại.
Ngoài chất lượng thịt ngon thì giống lợn Kiềng Sắt còn có bộ gene rất tốt, đặc biệt là gene chịu nhiệt, gene kháng bệnh, do đó nó có thể sống trong đầm lầy.
Lợn Kiềng Sắt rất phù hợp trong điều kiện nuôi thả ở vùng đồi núi. Tuy nhiên, hiện nay số lượng lợn Kiềng Sắt thuần chỉ còn lại rất ít, phân bố rất rải rác ở những vùng xa xôi hẻo lánh của các huyện miền núi như Ba Tơ, Tây Trà, Sơn Tây. Đến nay, tìm được lợn Kiềng sắt thuần chủng là điều rất khó khăn, tốn rất nhiều thời gian và công sức. Ở những vùng giao thông tương đối thuận tiện, sự giao lưu mua bán khá phát triển thì rất khó có thể tìm thấy lợn Kiềng Sắt thuần. Ở những vùng này, giống lợn Kiềng Sắt đã lai với các giống lợn khác, đặc biệt là lợn Móng Cái được du nhập từ những vùng khác đến. Sự du nhập của các giống lợn khác đã tạo ra con lai với lợn Kiềng Sắt với các mức độ khác nhau.
Nguy cơ
Trong những năm qua, việc du nhập các giống heo ngoại có năng suất cao và giống lai tạo là nguyên nhân chính gây nên sự suy giảm mạnh và có nguy cơ mất hẳn nguồn gen giống lợn bản địa Kiềng Sắt. Giống này nuôi lâu nhưng nhẹ ký hơn giống lợn ở miền xuôi mang lên nên hiệu quả kinh tế kém, tình trạng lai tạp với các giống lợn khác nên giống nguyên gốc lợn kiềng sắt mất dần. Đến nay, số lượng lợn kiềng sắt tại Trại nghiên cứu thực nghiệm ứng dụng công nghệ sinh học đã phát triển lên trên 200 con lớn nhỏ. Và đến thời điểm này, đây là nơi sở hữu giống lợn kiềng sắt đạt chuẩn lớn nhất ở Quảng Ngãi. Ngoài duy trì 50 con có tiêu chuẩn tốt nhất được nuôi để bảo tồn, số còn lại được trại nuôi để bán giống, thịt cho nhu cầu, với giá đối với lợn trưởng thành là 100.000 đồng/kg hơi và 150.000 đồng/kg con giống, đắt hơn gấp 2 lần so với lợn bình thường
Việc tìm kiếm tuyển chọn rất khó khăn. Suốt hơn 2 năm liền, ở trung tâm phải lặn lội khắp 6 huyện miền núi trong tỉnh mới tìm được 40 con heo Kiềng Sắt, trong quá trình nuôi, cán bộ kỹ thuật của trung tâm theo dõi, ghi chép tỉ mỉ sự phát triển, sinh sản của số heo Kiềng Sắt đã tìm được để từ đó loại thải, tuyển chọn những con thuần chủng. Đến nay, tại Trung tâm đang chăm sóc 50 cá thể heo Kiềng Sắt thuần chủng, trong đó có năm con đực và 45 con cái. Thông qua việc bảo tồn các cá thể heo Kiềng Sắt bản địa nhằm lưu giữ nguồn gen quí nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu bảo tồn nguồn heo bản địa, Quảng Ngãi đang xúc tiến việc lai tạo heo Kiềng Sắt thương phẩm cung ứng giống cho người dân ở các vùng núi và các trang trại chăn nuôi tập trung, quy mô lớn để phát triển ngành chăn nuôi một cách bền vững, tạo sản phẩm sạch và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Nghiên cứu
Đã có nghiên cứu phát triển các giống lợn bản địa cho hệ thống chăn nuôi trong các trang trại kết hợp ở vùng trung du và đồi núi nhằm sản xuất thịt lợn chất lượng cao và an toàn phục vụ thị trường tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đề tài đã triển khai xây dựng 3 mô hình tại 3 vùng sinh thái khác nhau tại hộ ở thôn Hoà Sơn, xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành với quy mô chuồng trại lên 1.000 m2; tại thôn Tình Phú Nam, xã Hành Minh, huyện Nghĩa Hành và thôn 1, xã Long Hiệp, huyện Minh Long. Với mục đích nghiên cứu, bảo tồn và nhân rộng lợn Kiềng Sắt trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nhằm duy trì sự đa dạng sinh học vật nuôi, đồng thời tăng cường sử dụng tiềm năng của địa phương để phát triển các hệ thống chăn nuôi lợn phù hơp với điều kiện tự nhiên, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau, góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng đồi núi, tạo sản phẩm sạch, an toàn, có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu tiêu dùng ngày càng gia tăng của xã hội
Trường Đại học Nông Lâm Huế đã tiến hành thực hiện đề tài Nghiên cứu phát triển các giống lợn bản địa cho hệ thống chăn nuôi trong các trang trại kết hợp ở vùng trung du và đồi núi nhằm sản xuất thịt lợn chất lượng cao và an toàn phục vụ thị trường tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đề tài đã thực hiện được các nội dung nghiên cứu chủ yếu như điều tra thực trạng của lợn Kiềng Sắt trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh trưởng và sinh sản của lợn Kiềng Sắt được nuôi trong điều kiện trang trại kết hợp ở vùng núi của tỉnh Quảng Ngãi, nghiên cứu các chỉ tiêu năng suất và chất lượng thịt của lợn Kiềng Sắt; nghiên cứu sinh trưởng, phát triển và chất lượng thịt của lợn lai giữa lợn bản địa ở Quảng Ngãi với lợn rừng.
