✨Vương quốc Armenia (cổ đại)
Đại Armenia (tiếng Armenia: Մեծ Հայք Mets Hayk), cũng gọi là Vương quốc Đại Armenia , là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư hầu của La Mã và đế quốc Ba Tư cho tới năm 428. Lãnh thổ của vương quốc này vào thời thịnh trị trải dài từ Caspian đến biển Địa Trung Hải. Sau sự sụp đổ của Đế chế Achaemenid, vùng lãnh thổ của phó vương Armenia cũ được chia thành khoảng 120 vùng đất cho các gia tộc cai trị bởi những nakharar.Chúng được thống nhất dưới thời Artaxias I, người sáng lập của triều đại Artaxiad, sau này giai đoạn đầu của vương quốc cũng được biết đến là Artaxias Armenia (tiếng Armenia: Արտաշեսյանների Թագավորություն Artashesianneri Tagavorutyun). Armenia đã có lãnh thổ rộng lớn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất dưới thời vua Tigranes II (r. 95-55 trước Công nguyên) kéo dài từ biển Địa Trung Hải tới phía đông bắc sông Kura. Nhà Artaxiad đã bị lật đổ bởi những người La Mã vào năm 12, kết quả của một giai đoạn hỗn loạn và nội chiến. Hai vị vua chư hầu của La Mã đã được đưa lên ngôi, Tigranes V và Tigranes VI. Sau năm 54CN, vương quốc được cai trị bởi triều đại Arsaces sau đó nó còn được gọi là Arsaces Armenia (tiếng Armenia: Արշակունիների Թագավորություն Arshakunineri Tagavorutyun). Trong năm 387CN, Armenia được chia thành Armenia thuộc Byzantine ở phía tây và Armenia thuộc Ba Tư ở phía đông. Armenia thuộc Ba Tư vẫn nằm dưới sự cai trị của vua chư hầu nhà Arsaces cho đến năm 428 CN.
Lịch sử
Nguồn gốc
Những người cai trị thời kì đầu của vương quốc là phó vương của Armenia ("Armina" trong Tiếng Ba Tư cũ, "Harminuya" trong ngôn ngữ Elamite, và "Urartu" trong tiếng Babylon, một phần của Văn bia Behistun của Darius Đại đế) là một chư hầu của đế quốc Achaemenes, sau đó là một vương quốc độc lập dưới nhà Orontes (với sự ảnh hưởng của Macedonia). Trong năm 331 TCN, sau Trận Gaugamela, phó vương của Armenia, Orontes III và người cai trị của tiểu Armenia Mithridates đã tự công khai nền độc lập của họ. Orontes III cũng đánh bại tướng Menon của Alexandros Đại đế, người muốn chiếm các mỏ vàng của Sper. Sau đó do sự suy yếu của vương quốc bởi sự tấn công của đế quốc Seleukos, trong năm 201 TCN vị vua Orontes cuối cùng Orontes IV bị lật đổ và vương quốc đã rơi vào tay của Artashes, vị tướng người Armenia của Đế chế Seleukos, cũng là một hậu duệ của triều đại Orontes.
Nhà Artaxias
Sau sự suy sụp của vương quốc Seleukos bởi thất bại trước người La Mã trong trận Magnesia, một quốc gia Hy Lạp hóa đã được thành lập bởi Artaxias I vào năm 190 TCN. Artaxias đã chiếm Yervandashat, thống nhất cao Nguyên Armenia và thành lập thủ đô hoàng gia mới Artaxata gần sông Araxes Theo Strabo và Plutarch, Hannibal Barca đã được chào đón nồng nhiệt tại triều đình Armenia của Artaxias I. Các tác giả thêm một giai thoại về việc Hannibal đã lên kế hoạch và giám sát xây dựng Artaxata thành phố mới đã chiếm giữ một vị trí chiến lược vào thời điểm các tuyến đường thương mại kết nối thế giới Hy Lạp cổ đại với Bactria, Ấn Độ và Biển Đen đã cho phép Armenia phát triển thịnh vượng
Lưu ý rằng những con số được đưa ra bởi các sử gia Do Thái vào thời gian đó có thể được phóng đại, xem xét thực tế rằng nhà Hasmonea của người Do Thái đã thua cuộc chiến tranh chống lại Tigranes.
phải| Lính bộ binh Armenia đội chiếc mũ giáp Mithras truyền thống.
Dưới triều đại của vua Pap trong năm 370 CN,quân đội của vương quốc Armenia có 90,000 người. Một số nguồn cho biết, 16.000 kị binh và 24.000 lính bộ binh được bổ sung cho Crassus trong năm 54 TCN bởi Artavasdes II và một đội quân 13.000 người đã được trao cho Marcus Antonius trong năm 36 trước Công nguyên.
Ayrudzi
Từ thời cổ đại ở Armenia đã tồn tại lực lượng kỵ binh "Azatavrear" bao gồm từ tầng lớp tinh túy của các bộ lạc Armenia, sau đó từ tầng lớp tinh túy của người dân Armenia. Kỵ binh"Azatavrear" là một phần chính của triều đình vua Armenia. Sau đó, trong thời trung cổ kỵ binh "Azatavrear" hoặc kỵ binh nặng Armenia đã được tuyển mộ từ quý tộc (con trai út của lãnh chúa Armenia) và được biết đến là AYRUDZI (người đàn ông và con ngựa, kị binh). Trong thời bình, kỵ binh Armenia được chia thành một số nhóm nhỏ có vai trò bảo vệ của nhà vua và gia đình của ông như những lãnh chúa Armenia. Một số kỵ binh Armenia tuần tra biên giới Armenia dưới sự chỉ huy của những tướng quân Armenia (sparapet). Nhóm kỵ binh Armenia này có nhiệm vụ chính là bảo vệ nhà vua Armenia và gia đình của ông trong thời kỳ cổ đại bao gồm từ 6000 kỵ binh giáp sắt nặng, và trong thời kỳ trung cổ - vào khoảng 3000 kỵ binh. Trong thời gian chiến tranh số lượng kỵ binh Armenia có thể đạt từ 10.000 lên 20.000 kỵ binh hoặc thậm chí cao hơn. Bên cạnh kỵ binh nặng Armenia, còn có kỵ binh nhẹ Armenia, mà chủ yếu là bao gồm từ kỵ cung
Legio I Armeniaca
"Legio Armeniaca "dịch từ tiếng La tinh là lê dương Armenia và " prima " là "thứ nhất". Quân đoàn lê dương này là một trong những quân đoàn vào thời kì cuối của đế chế La Mã. Quân đoàn này được đề cập trong tác phẩm vào giai đoạn cuối thời cổ đại, được biết đến là Notitia Dignitatum. Nhiều khả năng Lê dương Armenia thứ nhất được thành lập vào thế kỷ thứ 2 hoặc 3 ở phần phía Tây của Vương quốc Armenia và có nhiệm vụ bảo vệ những vùng đất của Armenia khỏi sự xâm nhập. Đầu tiên là đơn vị đồn trú trên những vùng đất của Armenia mà nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế La Mã. Lê dương Armenia thứ nhất đã tham gia chiến dịch Ba Tư của hoàng đế Julianus Tà Giáo trong năm 363.
Legio II Armeniaca
"Legio Armeniaca" dịch từ tiếng Latin là "lê dương Armenia" và "Secunda" là "thứ hai".Lê dương Armenia thứ hai cũng như quân đoàn lê dương Armenia thứ nhất là một trong những quân đoàn vào thời kỳ cuối của Đế chế La Mã. Quân đoàn này cũng đề cập đến trong Notitia Dignitatum. Lê dương Armenia thứ hai có thể được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 3 hoặc đầu thế kỷ thứ 4. Lê dương Armenia thứ hai đã có một trại đóng quân thường trú tại một trong các tỉnh phía Bắc của phương Đông. Quân đoàn này xây dựng một trại tại Satala. Quân đoàn lê dương Armenia thứ hai hơn nữa được đề cập đến trong năm 360 như một phần của các đơn vị đồn trú ở Bezabda (xưa gọi là Phoencia) ở thượng nguồn sông Tigris. Ở Bezabda, Lê dương Armenia Thứ hai đã phục vụ cùng với lê dương Parthica và II Flavia. Năm 390, Bezabda bị chiếm bởi người Ba Tư và một cuộc tắm máu khủng khiếp đã được tiến hành đối với cư dân và đơn vị đồn trú. Tuy nhiên, quân đoàn dường như đã sống sót trong trận chiến, bởi vì nó xuất hiện trong Notitia Dignitatum đã được viết vào thế kỷ thứ 5.
Sau đó quân đoàn lê dương Armenia thứ hai đã trở thành một phần của quân đội Byzantine.
Thần thoại
Bản đồ
