✨Trận Tuy Dương
Trận Tuy Dương (chữ Hán: 睢陽之戰 Tuy Dương chi chiến) là cuộc chiến giữa nhà Đường và chính quyền Đại Yên, là một phần của loạn An Sử giữa thế kỷ 8 trong lịch sử Trung Quốc. Hơn 2.000 quân Đường trong thành đã cố thủ chống lại 13 vạn quân Yên, cầm cự trong suốt hơn 1 năm mới bị thất thủ.
Thành Tuy Dương vốn thuộc quyền Thái thú Hứa Viễn. Trước đó Trương Tuần đã kiên cường phòng thủ ở Ung Khâu chống lại quân Yên trong nhiều ngày. Khi lương thực ở Ung Khâu gần cạn, lại bị quân Yên vây đánh Ninh Lăng, cắt đứt nốt con đường ra ngoài cuối cùng, Trương Tuần buộc phải bỏ thành Ung Khâu, đến hội quân ở Tuy Dương với Hứa Viễn, vận động Hứa Viễn cùng đến cứu Ninh Lăng. Hai bên đồng tâm đánh lui Dương Triều Tông ở Ninh Lăng, giết hơn 1 vạn quân Yên.
Thắng trận, Trương Tuần định đánh úp Trần Lưu. Tướng Yên là Doãn Tử Kỳ (dưới quyền Sử Tư Minh) thám thính biết ý định của Trương Tuần bèn mang 13 vạn quân vây đánh Tuy Dương. Hứa Viễn không đồng ý chuyển lương đi vì cần cho việc nuôi quân phòng thủ. Lý Cự không nghe, ép phải chuyển lương cho Tế Âm. Tướng giữ Tế Âm sau khi được 3 vạn hộc lương lại đầu hàng Doãn Tử Kỳ, khiến cho quân Yên được tiếp sức càng mạnh lên trong khi quân Đường bị suy yếu đi.
Đợt tấn công thứ ba
Thành bị đói
Doãn Tử Kỳ mang quân trở lại đánh Tuy Dương lần thứ 3. Trương Tuần cố thủ kiên cường trong thành, nhiều lần đẩy lui được quân Yên.
Nhưng sau đó trong thành hết lương. Nhân dân trong thành phải ăn cả vỏ cây, chim sẻ, thịt chuột, rồi giết ngựa chiến để ăn. Thượng Hành đóng quân ở Bành Thành đều không chịu ra quân cứu Tuy Dương.
Trong thành hết lương, "giấy gói trà đã hết, bèn ăn ngựa; ngựa hết, bẫy sẻ đào chuột", bắt đầu phải ăn người. Trương Tuần đem ái thiếp sung làm quân lương, "rồi mới đến phụ nữ trong thành, cũng hết, tiếp theo là người già, đàn ông" cầu viện Ngự sử đại phu Hạ Lan Tiến Minh.
Tiến Minh nói: "Sự tồn vong của Tuy Dương đã rõ rồi, xuất binh có ích gì?" Tề Vẫn đáp: "Thành còn chưa bị hạ. Nếu mất rồi, xin lấy cái chết để tạ lỗi với đại phu." Tiến Minh khiếp sợ phản quân, lại đố kỵ công lao và danh vọng của Trương Tuần, Hứa Viễn hơn hẳn mình, không muốn phát binh. Ông ta yêu thích sự hùng tráng của Nam Tễ Vân, muốn lưu lại, bèn bày tiệc để chiêu đãi. Nhạc trỗi lên, Nam Tễ Vân liền rút bội đao chặt đứt ngón tay giữa, đưa ngón tay còn chảy máu ròng ròng cho Hạ Lan Tiến Minh xem , rồi nói: "Khi Vân đến đây, người Tuy Dương đã không ăn hơn tháng rồi. Nay đại phu không chịu xuất binh, nếu Vân một mình được ăn uống, nghe nhạc, về mặt đạo nghĩa thật là bất nhẫn; dẫu có ăn cũng không nuốt xuống được." Những người trong tiệc đều cảm động mà rơi nước mắt.
Hạ Lan vẫn không động lòng, ông phẫn uất bỏ đi. Trong lúc ra thành, ông quay lại giương cung bắn vào tòa phù đồ (tức là cái tháp để thờ Phật), ngập sâu đến nửa mũi tên, mà rằng: "Sau khi bình định phản tặc, ắt quay lại giết Hạ Lan, nay lưu mũi tên này lại làm dấu."
Nam Tễ Vân trở lại Ninh Lăng chiêu mộ được 3.000 quân, lại phá vây vào thành. Quân sĩ đụng độ với quân Yên bị chết khá nhiều, chỉ còn lại 1000 người lọt được vào trong thành Tuy Dương. Người trong thành biết sẽ không có viện binh, khốc rống lên suốt vài ngày
Doãn Tử Kỳ hạ thành
Doãn Tử Kỳ từ khi thấy Nam Tề Vân đi thoát, đoán sẽ có viện binh đến cứu nên ngày đêm lo phòng thủ; nhưng sau đó thấy Nam Tề Vân một mình cùng vài ngàn quân trở lại, biết là Tuy Dương sẽ không được cứu viện, nên càng siết chặt vòng vây.
Các tướng khuyên Trương Tuần phá vây đi về phía đông nhưng ông cho rằng Tuy Dương là phên dậu của Giang Hoài, nếu bỏ thành này đi thì quân Yên sẽ thừa cơ xuống phía nam, Giang Hoài sẽ mất; quân trong thành toàn những người nhịn đói sẽ khó thoát chết, chi bằng chết cùng thành.
Hứa Viễn cũng tán thành với ý kiến của ông. Quân Yên công phá, Trương Tuần vẫn dốc sức ứng chiến. Mỗi lần ra trận, Trương Tuần nổi giận dữ, mắt mở to, hai hàm răng nghiến chặt lại với nhau tới mức có răng bị gãy. (24 tháng 11 năm 757) bị quân Yên hạ. Trương Tuần cùng Hứa Viễn và Nam Tề Vân đều bị bắt sống. Doãn Tử Kỳ không tin Trương Tuần ra trận nghiến răng tới mức gãy răng, bèn sai quân dùng đại đao cạy miệng ông ra xem, thì quả nhiên thấy chỉ còn 3 chiếc răng. Vai trò giữ thành của Trương Tuần được đánh giá rất cao, ông được xem là người có công lao lớn trong việc bình định loạn An Sử.
Khi thành Tuy Dương bị quân Yên hạ thì cũng đúng lúc quân chủ lực nhà Đường do Quách Tử Nghi chỉ huy phản công mạnh mẽ từ phía tây, lần lượt giành lại hai kinh Trường An và Lạc Dương. Vì thế sau khi Tuy Dương bị hạ, quân Yên không kịp tiến xuống phía nam mà phải quay sang đối phó với quân chủ lực nhà Đường. Viên tướng phụ trách mặt trận phía đông bên Đại Yên (thượng cấp của Doãn Tử Kỳ) là Sử Tư Minh quay sang đầu hàng nhà Đường. Nhờ vậy, vùng Giang Nam không bị quân Yên tàn phá, an ninh, kinh tế và xã hội được giữ tương đối ổn định qua cuộc chiến. Sau chiến tranh, trung tâm kinh tế và văn hóa Trung Quốc di chuyển từ phương bắc xuống phía nam. Đặc biệt về kinh tế, vùng Giang - Hoài trở thành điểm tựa cho chính quyền trung ương, là nơi cung ứng lúa gạo, tơ lụa và tiền bạc chủ yếu, khi các cơ sở kinh tế miền bắc đã bị hủy hoại rất nặng nề. Sự kiên cường của phòng thủ giữ thành của Trương Tuần, Hứa Viễn không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế đối với nhà Đường; trận đánh có ảnh hưởng không chỉ trong cuộc chiến tranh mà cả sau cuộc chiến
Nghe tin Trương Tuần chết cùng thành Tuy Dương, Đường Túc Tông nêu gương cảm tử tiết liệt của ông, truy phong ông làm Đại đô đốc Dương châu. Sau loạn An Sử, Đường Đức Tông cho vẽ hình Trương Tuần, Hứa Viễn, Nam Tễ Vân, đưa vào thờ trong Lăng Yên các
Bài thơ Chính khí ca của Văn Thiên Tường cũng nhắc tới tấm gương trung nghĩa của Trương Tuần: :Đầu Nghiêm thách trước giặc :Máu Kê trên áo vua :Răng Trương công chửi địch :Lưỡi Kiều Khanh mắng thù. :...Khi ấy tràn ngập tới :Oai nghiêm muôn thuở còn :Khi đã vượt nhật nguyệt :Sống thác chuyện con con!
Trương Tuần để lại bài thơ Thủ Tuy Dương tác, nói về việc tử thủ ở thành Tuy Dương như sau: :Tiếp chiến quân qua khổ :Thành côi sức đã hao :Vòng vây trăng tỏa ánh :Quân giữ cá trong ao :Bụi bốc ghê lang sói :Cờ vung tỏ lược thao :Ôm thương ra trận tiếp :Uống máu tới tường cao :Trung nghĩa vốn khôn địch :Kiên trinh quyết chẳng nao :Không ai người báo chúa :Kế sách biết làm sao?
Bài thơ này được sử gia Trung Quốc là Triệu Kiếm Mẫn đánh giá như sau: :"Bài thơ này rất thảm liệt, rất lạnh lùng, nói lên chí khí của bậc nam tử, nói lên tâm ý của bậc vĩ nam tử, thể hiện một quả tim báo nước nóng bỏng"
