✨Trần Tuấn Khải
Trần Tuấn Khải (chữ Hán: 陳峻塏; 4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam (亞南,.
Ra tù, vợ chết, con nhỏ chết. Chôn cất vợ con xong, ông trở về Thái Hà, lại bắt đầu viết bài cho các báo. Năm 1938, ông cưới người vợ thứ họ Nguyễn. Ông có 4 người con với người vợ đầu, ba trai và một gái là Nữ sĩ Tuệ Mai. Ông có được sáu cô con gái và hai người con trai với bà Thiên Lý. 6 người con gái của ông gồm có nhà thơ Lan Hinh (Trần Thị Lan), nhà thơ Mai Hồng Khương (Trần Thị Mai Hương), Trần Thị Ngọc Bảo, Trần Thị Ngọc Dung, Trần Thị Ngọc Khanh và Trần Thị Băng Thanh, con trai là Trần Quốc Tuyền và Trần Quốc Lăng.
Năm 1947, ông đem theo con tản cư đến Nho Quan, nhưng đến năm 1954 thì di cư vào Nam, làm việc tại Thư viện Quốc gia, Viện Khảo cổ, chuyên viên Hán học tại Nha văn hóa và các báo Đuốc Nhà Nam, Văn hóa nguyệt san, Tin văn... nhỏ|trái|Á Nam Trần Tuấn Khải (trái), [[Tú Duyên và Đào Sĩ Chu]] Năm 1966, ông cùng một số trí thức tiến bộ ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa trực tiếp hiệp thương với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hòa bình, nên bị buộc nghỉ việc.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất vì bệnh già tại cư xá Trần Quốc Toản (cư xá Liberty của Pháp), hưởng thọ 88 tuổi (1983).
Tác phẩm
Thơ
Duyên nợ phù sinh I (1921) Duyên nợ phù sinh II (1922) Bút quan hoài I (1924) Hồn tự lập I (1924) Bút quan hoài II (1927) Hồn tự lập II (1927) Với sơn hà I (1936) Với sơn hà II (1949) *Hậu anh Khóa (1975)
Tiểu thuyết
Gương bể dâu I (1922) Hồn hoa'' (1925) *Thiên thai lão hiệp''(1935- 1936)
Kịch
*Mảnh gương đời (1925)
Dịch thuật
Thủy hử (1925) Hồng lâu mộng (1934) Đông Chu liệt quốc (1934) ...
Thành tựu nghệ thuật
*Trong Tự điển văn học: :Văn xuôi của Trần Tuấn Khải tựu trung vẫn là lối văn cổ, từ hình thức đến nội dung đều có phần lạc hậu, chưa theo kịp đà phát triển của văn xuôi lúc bấy giờ. Thơ ca mới là phần chính trong sự nghiệp sáng tác của Trần Tuấn Khải và cũng là phần ông đạt được một số thành công nhất định.
:Thơ Trần Tuấn Khải thường nói đến tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng chủng, đồng bào, lòng thủ chung, nhân ái... đó là nếp sống, là đạo đức truyền thống của dân tộc. :Và thơ ông đều có ngụ ý nhắc nhủ về non sông, đất nước. Đất là cái nhìn ưu thời mẫn thế của tác giả, đồng thời đấy cũng chính là tình cảm phổ biến của nhiều người lúc bấy giờ: thiết tha với độc lập dân tộc... Chính vì thế mà thơ ca của ông được quần chúng yêu thích. :Các bài như "Gánh nước đêm", "Tiễn chân anh Khóa", "Mong anh Khóa", "Gửi thư cho anh Khóa", trong một thời gian dài đã được truyền tụng rộng rãi. :Về mặt nghệ thuật, ngoài những bài được sáng tác theo thể thơ Đường luật, ông còn viết bằng các thể thơ thuần Việt như: lục bát, song thất, các điệu hát ví, hát xẩm, sa mạc, hát nói... và phần thành công chính là ở đây
*Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến: :Thơ Trần Tuấn Khải không chứa đựng triết lý bí hiểm, tư tưởng cao siêu, nó giản dị như một chân tình, nó rỡ ràng như sự phơi bày trọn vẹn cả tấc lòng. Người đọc dễ dàng đạt ý và rung động qua trực cảm, vì Á Nam đã cấu tạo thơ mình bằng nhạc điệu quen thuộc của dân tộc, cho nên sức truyền cảm rất bén nhạy. :Khảo sát thơ ông, chúng tôi bắt gặp đó đây những tư tưởng đã thành châm ngôn và cũng không ngoài việc gieo vào lòng người một ý chí bất khuất, một hùng khí ngùn ngụt, một nghĩa vụ thiết yếu của con người đúng với danh nghĩa "làm người" của nó
Nhớ Trần Tuấn Khải
Trích một vài mẫu chuyện của các nhà thơ và các nhà nghiên cứu văn học:
*Trần Tuấn Kiệt, soạn giả bộ Thi ca Việt Nam hiện đại: :Chúng tôi từ nhỏ, lúc còn học ở trường tiểu học Sa Đéc, được thầy dạy vài câu thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, không biết vì sao mà chúng tôi cảm thấy say sưa với những dòng thơ đó: :Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm :Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu :Bốn bề hổ thét chim kêu, :Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình. :...Thơ ông đã gieo vào lòng chúng tôi một mối cảm thông hoàn cảnh đất nước. Như một ánh sáng chói lọi mở cho con mắt trẻ trung của chúng tôi nhìn thấy cảnh điêu tàn của quê hương...
*Thi sĩ Nguyễn Vỹ: :Tôi đọc "Bút Quan Hoài" của Trần Tuấn Khải từ lúc còn nhỏ, và đã thuộc lòng: :Trời hè đương lúc nấu nung, :Nước đâu cô nỡ dứt lòng bán rao? :Bây giờ thiên hạ khát khao, :Khô gan ráo cổ kêu gào Nước luôn...
:Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng, :Nước Non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay?...
:Đầu óc con nít học trò, cảm thấy hai bài thơ chứa đựng tư tưởng thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng...
*Thi sĩ Xuân Diệu: :Tôi không quên lúc học lớp nhì, 14 tuổi, tôi mượn được quyển "Bút quan hoài". Tôi chép vào quyển vở mới một số đoạn thơ thích nhất...Quyển vở thơ Trần Tuấn Khải quý báu của tôi, như là tiếng gọi của lương tâm!
