✨Trận Timor
Trận Timor diễn ra tại Timor thuộc Bồ Đào Nha và Timor thuộc Hà Lan trên đảo Timor trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Quân đội Nhật Bản đánh chiếm hòn đảo này từ ngày 19 tháng Hai năm 1942 và bị kháng cự bởi một lực lượng nhỏ và trang bị kém của quân Đồng Minh – được gọi là Lực lượng Chim sẻ – phần lớn đến từ Úc, Anh quốc và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Sau ba ngày chiến đấu, quân Nhật đã buộc phần lớn quân Đồng Minh phải đầu hàng, tuy nhiên vài trăm biệt kích Australia tiếp tục tiến hành chiến dịch đột kích phi quy ước. Họ được hỗ trợ bởi máy bay và tàu thủy phần lớn đặt căn cứ tại Darwin, Australia khoảng 650 km về phía Đông Nam qua Biển Timor. Trong các trận chiến sau đó, người Nhật chịu tổn thất nặng, nhưng cuối cùng họ vẫn đủ sức kìm chế quân Úc.
Trận Timor tiếp diễn đến tận ngày 10 tháng Hai năm 1943 khi lực lượng Úc cuối cùng triệt thoái khỏi hòn đảo, làm cho họ là lực lượng trên bộ của Đồng Minh cuối cùng rút khỏi Đông Nam Á sau các cuộc tấn công của Nhật Bản năm 1941 – 1942. Kết quả là nguyên một sư đoàn Nhật Bản bị đứng chân tại chỗ trên đảo Timor trong hơn sáu tháng, làm cho lực lượng này không thể triển khai tiếp ở một nơi khác. Mặc dù Bồ Đào Nha đứng trung lập trong chiến tranh, nhưng nhiều người dân Timor thuộc Bồ Đào Nha và người Âu Bồ Đào Nha vẫn đánh lại Nhật Bản cùng với Đồng Minh hoặc hỗ trợ họ với thức ăn, nơi ẩn nấp và những thứ khác. Vài người Timor tiến hành kháng cự sau khi người Úc rút đi tuy phải trả giá đắt và hàng chục ngàn người Timor đã thiệt mạng trong sự chiếm đóng của Nhật Bản mà kéo dài đến khi chiến tranh kết thúc năm 1945.
Bối cảnh
Cho đến cuối năm 1941, đảo Timor được phân chia chính trị giữa hai thế lực thực dân: Bồ Đào Nha ở phía Đông với thủ phủ Dili và phần đất Ocussi bị chia tách nằm ở phần Tây, còn Hà Lan ở phía Tây với trung tâm hành chính tại Kupang. Lực lượng phòng thủ của Hà Lan gồm 500 người tập trung ở Kupang, trong khi đó lực lượng Bồ Đào Nha tại Dili chỉ khoảng 150 người. Tháng Hai năm 1941, chính phủ Úc và Hà Lan đồng ý với nhau rằng trong trường hợp Nhật Bản tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai trong phe Trục, Úc sẽ cung cấp quân lính và máy bay để củng cố Timor thuộc Hà Lan. Bồ Đào Nha vẫn giữ vị thế trung lập. Như vậy, sau cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng, một lực lượng nhỏ Australia – được biết đến với tên Lực lượng Chim sẻ - đến Kupang vào ngày 12 tháng Mười Hai năm 1941.
Lực lượng Chim sẻ lúc đầu được chỉ huy bởi Trung tá William Leggatt, và bao gồm Tiểu đoàn 2/40th, một đơn vị biệt kích – Đại đội độc lập số 2 – dưới quyền Thiếu tá Alexander Spence, và một khẩu đội pháo phòng thủ bờ biển, tổng cộng khoảng 1400 quân. Lực lượng hỗ trợ đường không bao gồm 12 máy bay ném bom hạng nhẹ Lockheed Hudson thuộc phi đoàn số 2, Không lực hoàng gia Australia.
Chính phủ Bồ Đào Nha và Anh quốc đã đạt được thỏa thuận về sự rút lui của lực lượng Đồng Minh khỏi Timor thuộc Bồ Đào Nha, thay vào bằng sự gửi quân của Bồ Đào Nha đến thay thế họ. Ngày 28 tháng Một năm 1942, lực lượng Bồ Đào Nha xuất phát từ Mozambique hướng đến Timor nhưng không kịp đến trước cuộc tấn công của Nhật Bản.
Các sự kiện khơi mào
Tháng Một năm 1942, lực lượng Đồng Minh trên đảo Timor trở thành mắt xích then chốt trong "Hàng rào Malay", phòng ngự bởi liên quân ngắn hạn Mĩ-Anh-Hà Lan-Australia dưới quyền chỉ huy của Tướng Sir Archibald Wavell. Sĩ quan hỗ trợ Úc được tăng viện đến Kupang vào 12 tháng Hai, bao gồm William Veale, người trở thành chỉ huy lực lượng Đồng Minh tại Timor. Trong thời gian này, nhiều thành viên của Lực lượng Chim sẻ do chưa quen với điều kiện nhiệt đới mắc sốt rét và một số bệnh khác.
Một đơn vị biệt kích khác của Úc, kém may mắn hơn, rơi vào vòng vây của Nhật một cách tình cờ. Mặc dù đã đầu hàng nhưng quân Nhật đã tàn sát tất cả trừ một người (theo nhà sử học quân sự Brad Manera).
Mặc dù các quan chức Bồ Đào Nha – dưới quyền Thống đốc Manuel Ferreira de Carvalho vẫn tiếp tục tuyên bố trung lập và phụ trách các vấn đề dân sự, nhưng người Âu Bồ Đào Nha và dân Đông Timor địa phương có thiện cảm với Đồng minh, do đó họ có thể dùng hệ thống điện thoại địa phương để liên lạc nội bộ và lấy tin tức tình báo về các hoạt động của Nhật Bản. Dù sao, quân Đồng Minh ban đầu không vận hành thiết bị vô tuyến và không thể liên lạc với Australia nhằm thông báo về sự tiếp tục kháng cự của họ.
Nhật Bản phản công, tháng Tám 1942
Vào tháng Tám, Sư đoàn 48 Nhật Bản – chỉ huy bởi Trung tướng Yuitsu Tsuchihashi – bắt đầu hành quân từ Philippines đến Timor và đóng tại Kupang, Dili và Malacca, giải vây cho đơn vị của Ito. Tsuchihashi sau đó tiến hành của phản công quy mô lớn trong một cố gắng đẩy quân Úc về một góc bờ biển phía Nam hòn đảo. Các khối quân Nhật tiến về phía Nam – hai từ Dili và một từ Manatuto ở bờ biển phía Đông Bắc. Một đơn vị khác Đông tiến từ Timor thuộc Hà Lan để tấn công các vị trí Hà Lan ở trung tâm phía Nam hòn đảo. Cuộc tiến công kết thúc vào ngày 19 tháng Tám 1942 khi phần lớn lực lượng Nhật rút về Rabaul, nhưng lẽ ra sớm hơn họ đánh chiếm trung tâm Maubisse và cảng phía Nam Beco. Người Nhật cũng tuyển mộ được số lượng ấn tượng thường dân Timor, họ sẽ cung cấp tin tức tình báo về Đồng Minh.
Trong tháng Chín, phần lớn quân Nhật thuộc Sư đoàn 48 bắt đầu đến để phụ trách chiến dịch. Người Úc cũng gửi lực lượng củng cố, trong đội hình 450 quân tinh nhuệ thuộc Đại đội độc lập 2/4th – được biết đến dưới tên "Lực lượng Lancer" đến Timor vào 23 tháng Chín. Tàu khu trục HMAS Voyager bị mắc cạn tại cảng phía Nam Betano khi cho quân đổ bộ và bị bỏ lại khi nó bị không kích. Thủy thủ đoàn được cứu an toàn bởi HMAS Kalgoorlie và Warrnambool vào ngày 25 tháng Chín và chiếc tàu bị hủy nổ sau đó. Vào ngày 27, Nhật Bản cho một mũi thọc sâu từ Dili đến xác tàu Voyager, nhưng không thành công đáng kể.
Vào ngày 11-12 tháng Mười Hai năm 1942, những người còn lại của cái ban đầu là Lực lượng Chim sẻ - trừ một vài sĩ quan – được sơ tán cùng thường dân Bồ Đào Nha, bởi tàu khu trục Hà Lan HNLMS Tjerk Hiddes. Sau đó, trong tuần đầu tiên của tháng Một, quyết định sơ tán Lực lượng Lancer đã được đưa ra. Trong đêm mùng 9, rạng mùng 10 tháng Một năm 1943, phần lớn binh sĩ của 2/4th và 50 người Bồ Đào Nha được đón bởi tàu khu trục HMAS Arunta. Một nhóm tình báo nhỏ được biết đến dưới tên Lực lượng S được giữ lại, nhưng sự hiện diện của họ nhanh chóng bị người Nhật phát hiện. Bằng các thuyền kayak gấp, với phần còn lại của Lực lượng Lancer, Lực lượng S đã tới mũi cực Đông của đảo Timor, nơi mà Đơn vị Đặc biệt Z của Anh – Úc đang hoạt động. Họ được sơ tán bởi tàu ngầm USS Gudgeon của Mĩ vào 10 tháng Hai. Trong giai đoạn cuối cùng của trận đánh này, 40 biệt kích Úc đã chết, trong khi 1.500 lính Nhật được tin rằng đã tử trận. Trong thời gian chiến tranh, nhiều người dân Timor chết do sự trả thù của Nhật Bản nhằm vào dân thường. Số lượng tử vong do chiến tranh của dân thường vào khoảng 40.000 đến 70.000.
Cuối cùng, Quân đội Nhật giữ quyền kiểm soát Timor đến tận khi họ đầu hàng tháng Chín năm 1945. Vào ngày 5 tháng Chín năm 1945, sĩ quan chỉ huy của Nhật gặp thống đốc Bồ Đào Nha tại Timor, trao lại quyền lực cho ông ta và để quân Nhật dưới quyền kiểm soát của người Bồ Đào Nha. Vào ngày 11 tháng Chín, Đơn vị Timor của Australia tới cảng Kupang và chấp nhận sự đầu hàng của toàn bộ lực lượng Nhật Bản trên đảo từ quan chức cao cấp của Nhật tại đây, Đại tá Kaida Tatsuichi của Trung đoàn xe tăng số 4.
