✨Trần Dụ Tông
Trần Dụ Tông (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm từ năm 1341 đến năm 1369.
Dụ Tông là con thứ 10 của vua Trần Minh Tông và là em của vua Trần Hiến Tông. Năm 1341, vua Trần Hiến Tông mất sớm, Thượng hoàng Minh Tông đón Dụ Tông lập làm vua. Nhà vua mới 5 tuổi nên Thượng hoàng quyết định mọi việc, chính sự ban đầu khá tốt đẹp. Sau khi Thượng hoàng qua đời, Dụ Tông đích thân chấp chính. Tuy hăng hái về chính sự, nhưng Dụ Tông lại thích hưởng lạc nhiều, xây dựng nhiều cung điện, thích đánh bạc, nuôi chim thú lạ khắp nơi, trong cung lại hiện ra khung cảnh hào hoa tráng lệ khác thường. Cơ nghiệp nhà Trần từ đây suy yếu. Vì mải chơi bời nên nhà vua sức khỏe kém, mất mà không có con nối, đến nỗi truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ, con nuôi của cố Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (anh Dụ Tông). Nhật Lễ định đổi sang họ Dương thì bị con thứ ba của Minh Tông là Trần Phủ lật đổ và giết chết.
Thân thế
Dụ Tông Hoàng đế tên thật là Trần Hạo (陳暭), tên dùng khi ngoại giao với nhà Minh là Trần Nhật Khuê (陳日煃), là con trai thứ 10 của Thượng hoàng Trần Minh Tông, mẫu thân là Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu, con gái của Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn. Ông là con út do Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu sinh ra, trên ông có Cung Túc vương Trần Nguyên Dục và Thiên Ninh Công chúa. Theo thân phận, ông thuộc dòng Hoàng đích tử, thân phận cao quý hơn Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông, vốn đều do các phi tần sinh ra.
Năm 1339, khi mới 4 tuổi, ông đã bị ngã xuống nước suýt chết đuối hôm rằm trung thu. Thầy thuốc Trâu Canh (vốn gốc Hoa, có cha là ngự y của Hốt Tất Liệt) cứu sống được nhưng nói rằng Hoàng tử Hạo sẽ bị liệt dương.
Năm 1341, Trần Hiến Tông qua đời khi mới 22 tuổi, không có con trai nối dõi. Anh trưởng Hạo là Cung Túc vương có thái độ ngông cuồng cho nên Thượng hoàng Minh Tông không lập làm vua mà quyết định chọn Trần Hạo, khi đó mới 6 tuổi. Theo lệnh của triều đình, các danh thần Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn đã bắt tay vào việc biên soạn các bộ "Hoàng Triều đại điển" và "Hình thư". được phong làm Thái úy, nắm hết binh quyền trong triều đình, việc bấy giờ là truyền thống của họ Trần khi để hoàng thân nắm hết các chức vụ trọng yếu của triều đình. Cung Tĩnh Đại vương là con trai thứ hai của Minh Hoàng, bấy giờ sau khi Hiến Tông hoàng đế không còn thì là Trưởng tử trong các con của Minh Hoàng. Vốn Chu Văn An yêu thích núi Chí Linh nên ông về cư ngụ tại đó, chỉ khi nào có buổi thiết triều quan trọng thì mới tới kinh sư. Dụ Tông thấy Chu Văn An là người có tài, muốn trao cho ông đại quyền, thế nhưng ông một mực khước từ không nhận. Thấy vậy, Hiến Từ Thái hậu đã khuyên can: "Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ta?". Và khi nhà vua ban áo mũ cho Chu Văn An thì danh nho này chỉ đa tạ thôi chứ không nhận lấy. Sử cũ chép rằng, có người đã xàm tấu với ông rằng Thái úy Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác đã yểm bùa hại ông, Quân phủ Lâm Bình đánh tan quân Chiêm. Trần Dụ Tông phong Phạm A Song làm tri phủ Lâm Bình. Tháng 3 âm lịch năm 1362, quân Chiêm Thành lại tiến đánh Hóa Châu, bắt dân rồi rút lui. Trần Dụ Tông sai Đỗ Tử Bình duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hóa và đắp thành Hóa Châu.
Tháng 1 âm lịch năm 1365, quân Chiêm Thành tiến đến đánh úp, bắt dân Hóa Châu mang về nước. Sang tháng 3 âm lịch năm 1366, quân Chiêm lại đến cướp phủ Lâm Bình. Quan phủ là Phạm A Song đánh bại được quân Chiêm. Trần Dụ Tông bèn phong cho A Song làm Đại tri phủ Lâm Bình, Hành quân thủ ngự sứ.
Tháng 12 âm lịch năm 1367, người Chiêm Thành sang đòi lại đất ở Hóa Châu.
Bang giao với Trung Quốc
Dưới thời Dụ Tông, nhà Nguyên đã suy yếu, nên biên giới phía bắc của Đại Việt khá yên ổn. Đến năm 1351, Trung Quốc xảy đang đại loạn khi khởi nghĩa Khăn Đỏ của người Hán bùng nổ nhằm chống lại ách thống trị của người Mông Cổ. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa này dần biến thành một cuộc chiến tranh quân phiệt giữa các thủ lĩnh nghĩa quân, trong đó hai thế lực của Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng đánh nhau ác liệt nhất. Trần Hữu Lượng thậm chí phái sứ giả sang Đại Việt kêu gọi triều đình nhà Trần hợp tác nhưng Dụ Tông thấy chiến sự ở phương bắc đang hỗn loạn nên không tham gia, tuy nhiên nhà vua vẫn ra lệnh cho binh lính phải phòng ngự cẩn mật ở vùng biên ải phía bắc để tránh bạo loạn.
Qua đời
Năm Kỷ Dậu (1369), vua Trần Dụ Tông băng hà ở Quang Triều cung, thọ 34 tuổi. Ông trị vì 28 năm, được an táng tại Phụ Lăng (阜陵). Thụy hiệu là Thống Thiên Thể Đạo Nhân Minh Quang Hiếu Hoàng Đế (統天體道仁明光孝皇帝).
Dụ Tông không có con kế vị. lên kế vị nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con của Cung Túc vương Trần Nguyên Dục là Trần Nhật Lễ lên ngôi, vì bà cho rằng Nhật Lễ là con của người con trai lớn, cháu đích tôn của bà, nên lên kế vị là hợp lý.
Nguyên mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy một kép hát bội là Dương Khương có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc vương sinh ra Nhật Lễ. Triều thần không tán thành vì cho rằng Nhật Lễ vốn là người họ Dương, không có máu mủ gì với Cung Túc vương, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu cho rằng Nhật Lễ về danh nghĩa vẫn là con của Trần Nguyên Dục nên lập là hợp lẽ.
Cuối cùng Nhật Lễ được lên ngôi vào tháng 6 năm 1369. Nhưng Nhật Lễ ăn chơi sa đọa như Dụ Tông, lại còn muốn bỏ họ Trần để lấy lại họ Dương, nên gây một làn sóng bất bình trong giới tôn thất nhà Trần. Chỉ hơn một năm sau, các tông thất nhà Trần hội nhau khởi binh về bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Định vương về lên kế vị, tức Trần Nghệ Tông.
Nhận định
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn về Trần Dụ Tông trong sách Đại Việt sử ký toàn thư như sau:
