✨Torii
nhỏ|Cổng torii nổi tiếng tại [[đền Itsukushima theo kiểu Ryōbu.]] Cổng là cổng truyền thống của Nhật Bản thường thấy nhất ở lối vào hoặc trong một đền thờ Thần đạo, tượng trưng cho sự chuyển đổi từ trần thế sang linh thiêng.
Torii xuất hiện tại Nhật Bản sớm nhất là từ giữa thời Heian; điều này có thể xác định một cách đáng tin cậy, được đề cập trong một văn tự viết năm 922.
Từ torii trong tiếng Nhật có thể được nguồn gốc từ từ trong tiếng Ấn Độ cổ Torana, từ này cũng là nguồn gốc của từ tiếng Trung Quốc bài phường.
Nghĩa và cách sử dụng tên gọi torii
nhỏ|trái|Một cổng torii tại lối vào [[Shitennō-ji, một ngôi chùa tại Osaka.]] Chức năng của torii là để đánh dấu lối vào của một chốn linh thiêng. Cũng vì lẽ đó mà con đường dẫn vào đền thờ Thần đạo được gọi là , luôn được mở rộng ra bởi một hoặc nhiều torii, đó cũng là cách dễ nhất để phân biệt một ngôi đền với một ngôi chùa. Nếu sandō đi qua nhiều torii thì cái ở ngoài gọi là . Trong quá khứ torii chắc chắn đã từng được dùng tại lối vào các ngôi chùa. Thậm chí trong hiện tại, nổi bật như chùa Tứ Thiên Vương được xây bởi Thái tử Shotoku - ngôi chùa lâu đời nhất nước Nhật - cũng có một cổng torii trước lối vào. (Cổng torii bằng gỗ nguyên gốc bị đốt cháy vào năm 1294 và được thay thế sau đó bằng một cổng bằng đá.) Nhiều ngôi chùa Phật giáo bao gồm một hoặc nhiều đền thờ Thần đạo dành riêng cho kami bảo hộ của họ ("Chinjusha"), và trong trường hợp này một cổng torii mang tính chất đánh dấu lối vào của đền thờ. Benzaiten là một nữ thần kết hợp có nguồn gốc từ nữ thần Ấn Độ Sarasvati, kết hợp các yếu tố của cả Thần đạo và Phật giáo. Vì lý do này, lễ đường của nữ thần có thể được tìm thấy ở cả các ngôi chùa lẫn các Thần xã, và trong cả hai trường hợp ở phía trước của lễ đường đều được đặt một torii. Benzaiten đôi khi được miêu tả với một biểu tượng torii trên đầu (xem hình bên dưới). Sự kết hợp giữa Phật giáo Nhật Bản và các torii do vậy trở nên lâu đời và bền chặt.
Yamabushi, các tu sĩ khổ hạnh ẩn cư trong núi của Nhật Bản với một truyền thống lâu đời như những chiến binh hùng mạnh được thiên phú cho sức mạnh siêu nhiên, đôi khi sử dụng torii như biểu tượng của họ.
Nguồn gốc của torii
thumb|Nữ thần Phật giáo [[Benzaiten, với biểu tượng torii xuất hiện trên đầu]] Nguồn gốc của torii hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Cho đến giờ có khá nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của torii, nhưng chưa có giả thuyết nào được xem là đúng và được chấp nhận phổ quát. Giả thuyết này hình thành trong các thế kỷ 19 và 20, do sự tương đồng về cấu trúc và tên gọi của hai cửa. Phản đối về ngôn ngữ và lịch sử hiện nay đã xuất hiện, nhưng không có kết luận nào được rút ra. Không giống như bản sao trong văn hoá Trung Quốc, hongsal-mun không có thay đổi nào đáng kể trong thiết kế và luôn luôn được sơn màu đỏ, với "các mũi tên" nằm trên đỉnh của kiến trúc (là nguồn gốc của tên gọi này).
Có một số từ nguyên thực tế khác nhau tồn tại cho từ torii. Theo một trong số chúng, tên này bắt nguồn từ thuật ngữ .
Giả thuyết khác giải thích tên theo nghĩa đen của nó: cánh cổng nguyên bản là nơi để cho chim muông đậu vào. Điều này dựa trên ý nghĩa về tôn giáo của việc chim đậu vào ở văn hoá châu Á, như sotdae (솟대) trong văn hoá Triều Tiên, là những cây sào với một hoặc nhiều con chim bằng gỗ đặt trên đầu của chúng. Thường được tìm thấy theo từng nhóm ở lối vào của làng cùng với các cột trụ totem được gọi là jangseung, chúng là những lá bùa xua đuổi ma quỷ và mang lại cho dân làng may mắn. Các "nơi cho chim đậu" tương tự trong hình thức và chức năng với sotdae cũng tồn tại trong các văn hoá shaman khác ở Trung Quốc, Mông Cổ và Siberia. Mặc dù chúng không giống như torii và phục vụ một chức năng khác, những "nơi cho chim đậu" hiển thị cách mà loài chim trong nhiều nền văn hóa châu Á - được cho là có tính chất ma thuật và tôn giáo, và do đó có thể giúp giải thích nghĩa đen bí ẩn của tên gọi torii ("nơi chim đậu").
Những cây sào được tin là đã hỗ trợ những biểu tượng chim bằng gỗ tương tự với sotdae đã được tìm thấy cùng với các con chim bằng gỗ, và được tin bởi một vài nhà sử học đã bằng cách nào đó phát triển thành kiến trúc torii hiện tại. Một điều thú vị là ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản, các sào đơn đại diện cho các vị thần (kami trong trường hợp Nhật Bản) và - cũng chỉ cây sào - là đơn vị đếm cho kami.
- Kasagi và shimaki có thể có một đường cong hướng lên gọi là .
- Nuki thường được giữ tại chỗ bởi nêm (). Trong nhiều trường hợp, kusabi thuần chỉ mang tính trang trí.
- Ở giữa nuki, có thể có một thanh chống hỗ trợ gọi là , đôi khi được bao phủ bởi một tấm bảng đề tên của ngôi đền (xem ảnh trong thư viện).
- Các trụ cột thường chống trên một chi tiết hình vòng bằng đá trắng gọi là hoặc . Chi tiết đá này thỉnh thoảng được thay thế bằng một chi tiết che khuất mang tính trang trí màu đen gọi là .
- Ở phía trên của các trụ cột có thể có một vòng trang trí gọi là .
Các phong cách
Về mặt cấu trúc, loại đơn giản nhất trong các loại torii là (xem minh hoạ bên dưới). Có lẽ là một trong những loại lâu đời nhất của torii, nó bao gồm hai cây chống với một sợi dây thừng linh thiêng gọi là shimenawa gắn giữa chúng.
Tất cả các loại torii có thể được chia thành hai họ torii, và . Torii của họ thứ nhất chỉ có các chi tiết thẳng, họ thứ hai thì có cả các chi tiết thẳng và cong. Ở dạng đơn giản nhất của nó, tất cả bốn thành tố được làm tròn và những cột trụ không có độ nghiêng. Khi nuki hình chữ nhật trong phần đó, nó được gọi là Yasukuni torii, bắt nguồn từ Thần xã Yasukuni ở Tokyo. Nó được tin là loại torii cổ nhất.
Ise torii
(xem minh hoạ bên trên) là những cánh cổng chỉ xuất hiện ở Nội Cung và Ngoại Cung ở Thần cung Ise ở Mie. Vì lý do này, chúng cũng được gọi là Jingū torii, từ Jingū, tên gọi tiếng Nhật chính thức của Thần cung Ise.
Loại cổng này và phong cách shinmei torii bắt đầu trở nên phổ biến hơn trong những năm đầu thế kỷ 20 tại thời điểm Thần đạo Quốc gia, bởi chúng được coi là lâu đời nhất và uy tín nhất.
Loại torii này là loại đầu tiên được sơn son và được nhận một shimaki ở Kasuga Taisha, đền thờ có tên được đặt cho phong cách này.
Torii của họ myōjin
Myōjin torii và các biến thể của nó được đặc trưng bởi các cây ngang cong.
Thư viện hình ảnh
Myōjin torii
, cho đến nay là phong cách torii phổ biến nhất, được đặc trưng bởi các cây ngang cong ở phía trên (kasagi và shimaki). Cả hai đường đều được làm cong nhẹ lên. Kusabi có xuất hiện trong công trình. Một myōjin torii có thể được làm từ gỗ, đá, bê tông hoặc các vật liệu khác, có thể được sơn son hoặc không sơn.
Nakayama torii
Phong cách , lấy tên từ Thần xã Nakayama ở Okayama, về cơ bản là một myōjin torii, nhưng nuki không nhô ra từ các cột trụ, và phần đường cong tạo bởi hai cây ngang được làm lộ ra nhiều hơn so với bình thường. Torii ở đền Nakayama cao tới 9 m, được xây dựng vào năm 1791. Tên gọi của phong cách bắt nguồn từ mối quan hệ lâu dài với Thần đạo Ryōbu, một dòng tư tưởng trong Chân ngôn tông. Torii nổi tiếng nổi trên mặt nước ở Itsukushima là một ryōbu torii, và đền thờ đó từng là một ngôi chùa của phái Chân ngôn tông, vì vậy mà nó vẫn có một ngôi chùa.
Hizen torii
là một loại bất thường của torii với một kasagi tròn và các cột trụ phình xuống bên dưới. Ví dụ ở thư viện bên dưới là cổng torii chính ở đền Chiriku Hachimangū ở Saga, và là một Tài sản Văn hoá Quan trọng được thành phố chỉ định.
Thư viện hình ảnh

(Tái bản thời Shōwa (1926–1989) bởi Adachi)]] là một loạt tranh in phong cảnh của nghệ sĩ ukiyo-e