✨Tôn Thúc Ngao
Vĩ Ngao (chữ Hán: 蔿敖, 630 TCN — 593 TCN), tính Mị thị Vĩ, tự Tôn Thúc (孙叔), tên khác là Nhiêu, tự khác là Ngải Liệp ; thường gọi là Tôn Thúc Ngao (孙叔敖), là lệnh doãn nước Sở thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Sở Trang vương xưng bá.
Thân thế
Ông là hậu duệ của Sở Vĩ Mạo (tức Sở Lệ vương), ông nội là lệnh doãn Vĩ Lã Thần, cha là tư mã Vĩ Giả. Vĩ Ngao được sinh ra ở làng Bạch Thổ bên hồ Hải Tử thuộc Dĩnh Đô . Có lẽ người trước đời Tần quen đặt tự ở trước tên, nên người nước Sở gọi ông là Tôn Thúc Ngao .
Sau khi Vĩ Giả bị hại, ông lánh nạn ở ấp Kỳ Tư . Đông Chu Liệt Quốc kể rằng Tôn Thúc Ngao cõng mẹ lánh nạn ở Mộng Trạch, chỉ là thuyết đến từ các tiểu thuyết thông tục xuất hiện vào đời Thanh.
Công tích
Trị thủy
Trong thời gian lánh nạn ở Kỳ Tư, ước đoán vào khoảng năm 605 TCN – 599 TCN , Tôn Thúc Ngao lãnh đạo nhân dân tháo nước sông Kỳ Tư tưới ấp Vu Lâu . Đây là Kỳ Tư Bi (hồ chứa nước) , công trình thủy lợi dạng kênh ngòi đầu tiên được sử sách ghi nhận ở Trung Quốc.
Trong thời gian làm lệnh doãn (ước đoán 599 TCN – 596 TCN), tương truyền Tôn Thúc Ngao xây dựng Thược Bi (芍陂, có thuyết khác là Sở đại phu Tử Tư thời Chiến Quốc) . Thược Bi từ đời Hán còn gọi là An Phong Đường, nên nhà Tùy tại đây đặt huyện An Phong . Năm 1988, Quốc vụ viện Trung Quốc công nhận An Phong Đường là đơn vị văn vật trọng điểm được quốc gia bảo hộ.
Kỳ Tư Bi, Thược Bi đều là công trình thủy lợi quan trọng của Lưỡng Hoài, các triều đại về sau nhiều lần bảo trì, bảo dưỡng. Đời Tam Quốc, lần lượt Tào Tháo, Đặng Ngải tiến hành đại tu nhằm phục vụ công tác đồn điền. Đời Tây Tấn có Lưu Tụng, đời Lưu Tống có Lưu Nghĩa Hân, đời Tùy có Triệu Quỹ đều cho đại tu nhằm mở rộng diện tích trồng trọt. Các đời Minh, Thanh nhiều lần tiến hành tiểu tu.
Trị chánh
Vào khoảng năm 599 TCN – 600 TCN, ông được lệnh doãn Ngu Khâu tiến cử với Sở Trang vương để thay mình . Tôn Thúc Ngao ba lần làm tướng, ba lần từ chức , thi hành giáo hóa, trên dưới hòa hợp, phong tục tốt đẹp, giảm nhẹ hình phạt, quan lại không tham nhũng, giặc cướp không nổi lên; thu đông khuyên dân cày cấy, xuân hạ chài lưới, dân chúng sinh hoạt an vui, nước Sở trở nên giàu mạnh.
Đương thời nước Sở lưu hành "Nghĩ tị tiền" (tiền mũi kiến), Trang vương hiềm rằng trọng lượng nhỏ, nên đổi tiền bé dùng tiền lớn, khiến trăm họ sử dụng không được thuận lợi, giới thương nhân gặp nhiều tổn thất, kéo nhau rời bỏ việc kinh doanh. Tôn Thúc Ngao nắm được tình hình, thỉnh cầu khôi phục chế độ tiền tệ. Chỉ sau 3 ngày, chợ búa nước Sở sầm uất trở lại như trước.
Người nước Sở quen dùng xe nhỏ, không tiện để ngựa kéo. Trang vương muốn ban luật cho cả nước phải làm xe cao lớn, Tôn Thúc Ngao can rằng bắt buộc như thế sẽ khiến người ta phản cảm, đề nghị nâng cao cái bực cửa ở chợ. Bực cửa cao thì xe nhỏ đi qua không nổi, những người ngồi xe đều tự nhận là quân tử, cảm thấy xuống xe để đi qua thì bất tiện, nên đều đổi dùng xe cao lớn.
Năm 597 TCN, Tôn Thúc Ngao phù tá Sở Trang vương đánh bại quân Tấn ở đất Bật , hoàn thành bá nghiệp.
Hậu sự
Tôn Thúc Ngao mất sau trận Bật không lâu . Khi sắp mất, ông dặn con nhờ cậy Ưu Mạnh. Cả đời Tôn Thúc Ngao thanh liêm, gia cảnh nghèo khó. Người con đến lúc bần cùng, tìm gặp Ưu Mạnh. Hơn năm sau, Ưu Mạnh khéo léo nhắc nhở Sở Trang vương, nên người con được phong 400 hộ của đất Tẩm Khâu , để thờ phụng Tôn Thúc Ngao .
Dật sự
Đánh rắn 2 đầu
Giả tử kể lại câu chuyện Tôn Thúc Ngao đánh rắn hai đầu, đại lược như sau:
:Tôn Thúc Ngao cùng mẹ lánh nạn, thường ngày lo việc cày cuốc nuôi thân.
:Một hôm, vác cuốc ra đồng, trông thấy một con rắn hai đầu, Thúc Ngao tự nghĩ: Người ta thường nói, kẻ nào thấy rắn hai đầu tất vong mạng. Nay ta thấy con vật chẳng lành này thì khó sống nổi. Vậy ta hãy giết nó đi để tránh cho người khác khỏi mắc nạn như ta.
:Liền đánh chết con rắn, chôn nơi bờ ruộng. Khi về thưa chuyện cùng mẹ. Bà mẹ nói: Lành dữ là do lòng mình chứ đâu phải do rắn. Lòng con đã nghĩ đến điều lành, thì việc gặp rắn có dữ đến đâu cũng không có gì đáng ngại.
Ông già Hồ Khâu đến thăm Tôn Thúc Ngao
Liệt tử mượn Tôn Thúc Ngao làm nhân vật trong câu chuyện dụ ngôn của mình ở thiên Thuyết phù. Bài viết dùng bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, Liệt Tử và Dương Tử, Phần II: Liệt tử, Chương IV: Tỉnh và mộng:
:NHÚN NHƯỜNG LÀ MỘT CÁCH GIỮ MÌNH (bài VIII.17)
:(Hồ Khâu trượng nhân vị Tôn Thúc Ngao)
:Một vị trưởng lão ở Hồ Khâu bảo Tôn Thúc Ngao: Có ba cái oán ông biết không?
:''Tôn Thúc Ngao hỏi: Những cái nào vậy?
:- Tước cao thì bị người ta ghen, chức lớn thì bị người ta ghét, lộc hậu thì bị người ta oán.
:Tôn Thúc Ngao bảo: Tước tôi càng cao thì tôi càng tự hạ mình xuống, chức tôi càng lớn thì tôi càng cho là nhỏ, lộc của tôi càng hậu thì tôi phân phát càng nhiều, như vậy tránh được ba cái oán đó chăng?
