✨Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
thumb|Quan chức lãnh đạo của một số quốc gia thành viên SEATO trước thềm Tòa nhà Quốc hội tại Manila, hội nghị do Tổng thống Philippines [[Ferdinand Marcos chủ trì vào ngày 24 tháng 10 năm 1966.]] thumb|Một hội nghị của SEATO tại Manila
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á(, viết tắt theo tiếng Anh là SEATO), cũng còn gọi là Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á hay Tổ chức Minh ước Đông Nam Á là một tổ chức quốc tế đã giải tán. Tổ chức phòng vệ này được thành lập căn cứ theo Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á hay Hiệp ước Manila được ký vào tháng 9 năm 1954, thể chế chính thức của SEATO được thiết lập vào ngày 19 tháng 2 năm 1955 tại Bangkok, Thái Lan, trụ sở cũng đặt tại Bangkok. Tổ chức từng có 8 quốc gia thành viên.
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được thành lập với mục đích ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản tại châu Á, tuy nhiên do chia rẽ nội bộ nên tổ chức này không có biện pháp thi hành hữu hiệu hành động phòng vệ, không thể can thiệp trong Nội chiến Lào và Chiến tranh Việt Nam; tuy nhiên trên một phương diện khác, các kế hoạch văn hóa và giáo dục do tổ chức này tài trợ có ảnh hưởng sâu xa đối với khu vực Đông Nam Á, nhằm áp chế thế lực cộng sản chủ nghĩa tại châu Á. Trong thời gian Eisenhower đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ, Ngoại trưởng John Foster Dulles (tại nhiệm 1953–1959) mở rộng khái niệm phòng thủ tập thể chống cộng đến Đông Nam Á nhằm đạt được mục đích kể trên.. Ngoài ra, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đều không ủng hộ Hiệp định Genève 1954. Đối tượng mà tổ chức bao vây ngăn chặn là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thi hành xã hội chủ nghĩa. Quốc gia thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (đặc biệt là Hoa Kỳ) nhận định rằng thể chế này có khả năng cản trở những người cộng sản thay đổi bản đồ chính trị Đông Nam Á. Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á điều phối quân đội các quốc gia thành viên nhằm đạt đến mục đích phòng vệ tập thể. Năm 1957, trong hội nghị của SEATO tại Canberra thiết lập Hội đồng Bộ trưởng, Bộ tham mưu quốc tế cùng các ủy ban về kinh tế, an ninh và thông tin,, và từng giữ chức Thủ tướng Thái Lan từ tháng 9 đến hết năm 1957. Từ đó về sau, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á do Tổng thư ký lãnh đạo..
Khác với NATO, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á không thiết lập quyền chỉ huy thống nhất đối với lực lượng thường trực. Ngoài ra, nguyên tắc phản ứng của SEATO trong trường hợp chủ nghĩa cộng sản thể hiện "uy hiếp chung" đối với các quốc gia thành viên là mơ hồ và vô hiệu, song việc là thành viên của tổ chức cung cấp cho Hoa Kỳ một cơ sở pháp lý để tiến hành can thiệp quy mô lớn trong Chiến tranh Việt Nam
Thành viên
Bất chấp danh xưng của mình, trong số tám quốc gia thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á chỉ có Thái Lan và Philippines nằm tại Đông Nam Á; các thành viên còn lại của tổ chức bao gồm Anh Quốc, Hoa Kỳ, New Zealand, Pakistan (bao gồm Đông Pakistan, nay là Bangladesh), Pháp, Úc. Ngoài ra, hai quốc gia này đều phải đối diện với tình trạng cộng sản mới bắt đầu nổi dậy trong nước. Thái Lan lưu ý đến việc Trung Quốc lập khu tự trị dân tộc Thái tại tỉnh Vân Nam (năm 1953 lập Khu tự trị dân tộc Thái và dân tộc Cảnh Pha Đức Hoành và Khu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp) và chi viện cho người H'Mông tại miền bắc Thái Lan, Pathet Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng ủng hộ các bộ tộc tại khu vực Đông Bắc Thái Lan khởi binh.
Các quốc gia Đông Nam Á còn lại không tham dự Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á khác vì nhiều nguyên nhân khác nhau: Miến Điện và Indonesia là thành viên của Phong trào không liên kết, nhận định rằng duy trì ổn định xã hội trong nước quan trọng hơn là đối phó với uy hiếp của cộng sản, thậm chí phản đối Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á. Malaya do đã ký với Anh Quốc hiệp định phòng thủ nên được Anh Quốc hiệp trợ đối phó với cuộc nổi dậy của Đảng Cộng sản Malaya và xung đột với Indonesia, do đó Malaya (sau đó là Malaysia, Singapore) không gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á.
Các quốc gia khác gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á vì các nguyên nhân khác nhau, đối với Úc và New Zealand, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được nhận định là tổ chức vừa ý hơn ANZUS, Anh Quốc và Pháp đều từng lập thuộc địa tại Đông Nam Á, cũng quan tâm đến phát triển cục thế tại Đông Dương, do đó gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á. Tại Hoa Kỳ, Thượng nghị viện phê chuẩn việc tham gia Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á với 82 phiếu ủng hộ, 1 phiếu phản đối. Hoa Kỳ đương thời có ý cùng liên thủ với Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan, Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia ký kết "Hiệp ước Manila", và Hiệp ước ANZUS hợp thành hệ thống phòng thủ Tây Thái Bình Dương.
Canada và Trung Hoa Dân Quốc vốn đã trù tính gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á, song Canada muốn chuyên tâm xử lý công việc của NATO, còn Anh Quốc, Pháp, Philippines, Pakistan phản đối Trung Hoa Dân Quốc gia nhập, cuối cùng không thể giải quyết. Ngoài ra, đại biểu các quốc gia thương nghị nội dung hiệp ước, cuối cùng quy định "Hiệp ước Manila" chỉ áp dụng trong phạm vi đến 21°30' vĩ Bắc, do đó không áp dụng cho Hồng Kông, tránh gây khó khăn cho Anh Quốc.
Ảnh hưởng văn hóa
thumb|Một tem bưu chính Hoa Kỳ có huy hiệu SEATO.
Ngoài tiến hành luyện tập quân sự liên hiệp, các quốc gia thành viên Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á còn nỗ lực cải thiện vấn đề xã hội và kinh tế.
Phê bình và giải tán
Liên Xô và Trung Quốc biểu thị phản đối ngay từ khi Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được thành lập. Dựa theo văn kiện do nhà đương cục Liên Xô biên soạn, chủ nghĩa thực dân không muốn thấy nhân dân thuộc địa nổi dậy, tự do phát triển, song không thể khiến nhân dân các quốc gia Á-Phi từ bỏ đấu tranh, do vậy họ thay đổi sách lược, lập ra các tập đoàn xâm lược như Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á, áp bức nhân dân bị nô dịch, trấn áp phong trào giải phóng dân tộc; Lãnh tụ Liên Xô và các quốc gia châu Á như Ấn Độ và Miến Điện phản đối SEATO, khiển trách kiểu tập đoàn xâm lược này, kết luận rằng tập đoàn này không thể khiến thế giới thêm hòa bình. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai nhận định rằng các nước Anh, Mỹ muốn dựa vào liên minh chống cộng để khiến Đông Nam Á phân liệt, song vì Hiệp định Genève nên không thành, họ lại thuyết phục SEATO nhìn nhận Trung Quốc là kẻ thù, ý muốn phân liệt châu Á, can thiệp nội chính các quốc gia châu Á, khiến cục thế khu vực càng thêm căng thẳng, song từ sau khi Nixon thăm Trung Quốc vào năm 1972, quan hệ Mỹ-Trung cũng đã hòa hoãn.
Thập niên 1970, một số quốc gia thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á không muốn tham dự công tác của tổ chức, đồng thời rút khỏi tổ chức: Đông Pakistan được Ấn Độ chi viện đã ly khai Pakistan, lập ra Bangladesh, một năm sau Pakistan rút khỏi Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á. Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á cử hành hội nghị cuối cùng vào ngày 20 tháng 2 năm 1976, đến ngày 30 tháng 6 năm 1977 thì chính thức giải tán rằng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á như một chiếc lá sung che đậy chính sách trơ trụi của Hoa Kỳ, còn Hiệp ước Manila là vườn thú gồm các con hổ giấy (hoặc các con sư tử giấy).
