✨Tía Hán và lam Hán
Chi tiết bích họa từ một ngôi mộ thời Đông Hán gần [[Lạc Dương, Hà Nam chỉ ra hai người đang chơi lục bác, chứa cả chất màu lam Hán và chất màu tía Hán.]]
Tía Hán và lam Hán là các chất màu bari đồng silicat tổng hợp được phát triển, sản xuất tại Trung Quốc và sử dụng ở Trung Quốc cổ đại từ thời Tây Chu (1045–771 TCN) cho đến cuối thời Hán (khoảng năm 220).
Tên gọi
Trong các bài báo công bố năm 1983 và 1992, Elisabeth West FitzHugh và Lynda A. Zycherman đề xuất các tên gọi Han blue (nghĩa đen: màu lam Hán) và Han purple (nghĩa đen: màu tía Hán) để chỉ các chất màu trang trí trên các cổ vật gốm, đồng và các thỏi hình lăng trụ bát giác màu lam tía có niên đại từ thời Chiến Quốc tới thời Hán. Tuy nhiên, các tài liệu tiếng Trung gọi hai màu này là 漢藍 (Hán lam, nghĩa là màu lam Hán) và 漢紫 (Hán tử, nghĩa là màu tía/tím Hán). Chúng cũng được gọi tương ứng là 中國藍 (Trung Quốc lam, nghĩa là màu lam Trung Quốc) và 中國紫 (Trung Quốc tử, nghĩa là màu tía/tím Trung Quốc). Trong bài này gọi các chất màu này tương ứng là tía Hán và lam Hán theo đề xuất của các bài báo gốc.
Màu sắc
Azurit là chất màu lam tự nhiên duy nhất ở Trung Hoa cổ đại. Người Trung Hoa cổ đại dường như không sử dụng chất màu tía tự nhiên và là những người đầu tiên phát triển chất màu tía tổng hợp.
Lam Hán trong dạng tinh khiết của nó, như tên gọi gợi ý, có màu xanh lam. Tía Hán trong dạng tinh khiết của nó thực sự có màu lam sẫm, gần với màu chàm điện. Nó là màu tía theo cách thức được sử dụng trong tiếng Việt thông tục, nghĩa là màu nằm giữa đỏ và lam. Tuy nhiên, nó không phải là màu tía theo cách thức được sử dụng trong lý thuyết màu, nghĩa là màu không quang phổ nằm giữa đỏ và tím trên 'vạch tía' trong biểu đồ sắc độ CIE. Có lẽ tên gọi chính xác nhất để chỉ màu này nên là 'chàm Hán', mặc dù nó cũng có thể được coi như là sắc thái sáng của màu lam sẫm (phân loại lam sẫm như là một màu chứ không phải là chất màu).
Màu tía được nhìn thấy trong các mẫu vật màu tía Hán được tạo ra nhờ sự có mặt của đồng(I) Oxide (Cu2O) màu đỏ được hình thành khi chất màu tía Hán phân hủy (đỏ và lam phối trộn tạo ra tía).
: 3 BaCuSi2O6 → BaCuSi4O10 + 2 BaSiO3 + 2 CuO
Với nhiệt độ cao hơn 1.050 °C thì CuO đồng(II) Oxide phân hủy thành đồng(I) Oxide:
Lam Hán có công thức hóa học BaCuSi4O10 và năm 1993 người ta phát hiện được khoáng vật hiếm gặp trong tự nhiên ở Nam Phi có công thức như vậy, gọi là effenbergerit. Lam Hán, giống như tía Hán, có cấu trúc lớp với silicat tạo thành khung cấu trúc. Tuy nhiên, lam Hán ổn định hơn do các đặc trưng cấu trúc, như:
- Nó giàu silica hơn.
- Mỗi silicat vòng 4 liên kết với 4 silicat khác ở mức cận kề, theo kiểu đường zig-zag. Tía Hán bắt đầu phân hủy ở nhiệt độ trên 1.050–1.100 °C và tạo thành thủy tinh màu đen ánh lục ở khoảng 1.200 °C.
Sản xuất
Sản xuất phụ thuộc vào nguyên liệu thô, tỷ lệ của chúng, chất trợ dung, nhiệt độ, môi trường và thời gian phản ứng. như sự sử dụng tiềm năng của các ống bễ kép như được sử dụng trong sản xuất kim loại. Nguyên nhân của sự suy giảm vẫn gây tranh cãi. Liu et al. Các chiến binh được nung ở nhiệt độ tương đương với nhiệt độ cần thiết để sản xuất tía Hán (), vì thế có thể sử dụng cùng một kiểu lò nung cho cả hai quy trình. cũng như trong Dương lăng của Hán Cảnh Đế (157–141 TCN) và Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu.
Đồ đựng bằng gốm
Các chất màu lam Hán và tía Hán cũng được sử dụng để trang trí đồ gốm màu xám sẫm thời Hán gọi là hồ (壺).
Đồ vật kim loại
Các đồ đựng bằng đồng thanh thời Hán, như bát và phần trên của nồi hấp, được trang trí bằng chất màu tía Hán.
Bích họa
- Rầm đỡ (lanh tô) và trán tường từ các lăng mộ thời Hán gần Lạc Dương được trang trí bằng chất màu lam nhạt bao gồm các thành phần màu lam, tía và không màu.
- Các bích họa lăng mộ thời Đông Hán ở khu vực Tây An là những ví dụ cuối cùng về việc sử dụng chất màu tổng hợp bari đồng silicat (màu tía Hán).
Bảo quản
Do tính không ổn định của chất màu tía Hán, nó cho thấy dấu hiệu phong hóa đáng kể trên các hiện vật khảo cổ học đã khai quật được. Đồng(I) Oxide được tạo thành trong quá trình phân hủy chất màu tía Hán (xem đoạn về màu) vẫn ổn định, nhưng chất màu tía Hán vẫn tiếp tục hư hỏng và màu tía của nó tăng dần theo thời gian.
Chất màu tía Hán bị bay màu trong axit, vì vậy các hạt không màu được tìm thấy trong các chất màu có chứa lam Hán và tía Hán có thể là các hạt ban đầu với màu tía, nhưng nhạt dần trong điều kiện axit tại nơi chôn cất. Ngoài ra, lam Hán có các tính chất diệt nấm nên bảo quản tốt hơn. Tía Hán phản ứng với axit oxalic tạo thành BaCu(C2O4)2. Màu lam nhạt của muối này có thể giải thích cho màu lam nhạt trên quần của một số chiến binh đất nung - màu này được sinh ra do sự hiện diện của các loại địa y tiết ra oxalat.
