✨Tả Thanh Oai
Tả Thanh Oai là một xã của huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Xã Tả Thanh Oai nằm ở phần phía Tây của huyện Thanh Trì, phía Bắc giáp xã Thanh Liệt của Thanh Trì, góc phía Tây Bắc giáp xã Tân Triều của Thanh Trì và phường Phúc La quận Hà Đông, phía Tây giáp xã Hữu Hòa của Thanh Trì (ranh giới là sông Nhuệ), phía Tây Nam và Nam giáp huyện Thanh Oai (các xã Cự Khê, Mỹ Hưng) ranh giới là sông Nhuệ. Phía Đông, Tả Thanh Oai tiếp giáp với các xã cùng huyện: Đại Áng (ở phía Đông Nam), Vĩnh Quỳnh (chính giữa phía Đông), Tam Hiệp (phía Đông Bắc). Tả Thanh Oai nằm bê bờ tả sông Nhuệ, phía Bắc có đường 70A Văn Điển-Hà Đông chạy qua, ngang qua chính giữa xã là tuyến đường sắt vành đai Văn Điển-Ba La-Phú Diễn chạy từ hướng xã Vĩnh Quỳnh sang xã Hữu Hòa.
Xã Tả Thanh Oai gồm các thôn làng: Tả Thanh Oai (tên nôm là Tó Tả), Thượng Phúc, Nhân Hòa, Siêu Quần.
Lịch sử
Vào đầu thế kỷ 19, vùng đất Tả Thanh Oai ngày nay là các xã, thôn (làng) của 2 tổng Tả Thanh Oai (Tả Thanh Oai, Nguyễn Thượng, Ngũ Phúc-Hạ Thanh Oai) và Đại Định (Siêu Quần), đều của huyện Thanh Oai phủ Ứng Thiên (tức Ứng Hòa) trấn Sơn Nam Thượng. Năm 1831, thành lập tỉnh Hà Nội, các làng xã này cùng toàn bộ phủ Ứng Hòa nhập về tỉnh Hà Nội.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, xã Tả Thanh Oai cùng với các xã Liên ninh, Ngọc Hồi, Đại Áng chuyển về huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Tây (hợp nhất 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây).
Ngày 29 tháng 12 năm 1975, xã Tả Thanh Oai nằm trong huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Sơn Bình do hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 4 xã ở phía bắc huyện Thường Tín là: Đại Áng, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai được sáp nhập vào huyện Thanh Trì, TP Hà nội.
Làng Tả Thanh Oai
Làng Tả Thanh Oai (làng Tó hay Tó Tả) thuộc xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì được cả nước biết đến là làng khoa bảng với 12 người đỗ đại khoa, gồm 4 Hoàng giáp và 8 Tiến sĩ, có họ Ngô với dòng Ngô gia văn phái và các danh nhân Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm đã đi vào lịch sử đất nước. Ngoài ra còn có 27 hương cống thời Lê, 10 cử nhân thời Nguyễn.
Những người đỗ đại khoa thuộc 4 họ: Nguyễn Khai Khoa, Ngô Vi, Ngô Thì và Nguyễn Thế. Họ Nguyễn k Khai Khoa có 3 tiến sĩ là Nguyễn Chỉ (đỗ năm 1453), Nguyễn Khánh Dung (1478). Nguyễn Tông Trình (1754). Trước đây, đầu dịp hội làng (ngày 14 tháng giêng), quan viên trong làng phải ra lễ ở mộ tổ và ở nhà thờ họ này.
Theo "Lư sử điển yếu điều lệ" do Ngô Thì Nhậm soạn năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) thì làng được hình thành từ lâu, đến giữa thế kỷ XV, một bộ phận tù binh Chiêm Thành bị đày ra đây khai khẩn vùng đất trũng, mở mang làng xóm.
Trong kháng chiến chống Pháp, làng Nhân Hòa nhập với các làng Tả Thanh Oai, Siêu Quần, Thượng Phúc thành xã Đại Thanh thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Năm 1965, xã Đại Thanh đổi tên thành Tả Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây (từ cuối năm 1975 là tỉnh Hà Sơn Bình). Đầu năm 1979, xã được chuyển về huyện Thanh Trì (Hà Nội).
Tên làng Siêu Quần bắt nguồn từ tên Nôm là Kẻ Gùn. "Gùn" có nghĩa là "quần tụ"; còn "Siêu" ý chỉ làng là nơi sinh tụ của dân từ rất nhiều địa phương khác nhau, trong đó một bộ phận lớn là từ huyện Vĩnh Lộc (tỉnh Thanh Hóa) và vùng Thuận Hóa (tỉnh Thừa Thiên - Huế) chuyển ra từ đầu thời Lê Sơ. Hơn sáu trăm năm trôi qua, người dân ở đây vẫn giữ được những âm gốc ở quê mình.
Theo truyền thuyết, lúc đầu, dân cư tập trung ở bờ Bắc sông Nhuệ. Sau một trận lũ lớn, nước ngập đến mái nhà, có một con chó mẹ tha đàn con đến một gò đất chếch về phía Đông - Nam. Dân làng thấy đó là điềm tốt nên sau trận lũ đã chuyển đến gò đất đó sinh sống, tức trung tâm làng bây giờ. Sau đó, dân các nơi thấy đất này dễ làm ăn, con người thuần hậu nên kéo về ngày một đông. Trong đình hiện nay còn bức đại tự bốn chữ "Siêu bạt quần luân" hay câu ngạn ngữ "Lang bạt Siêu Quần, cao quan Kẻ Lủ" để chỉ việc này. Dân làng Siêu Quần xưa kia chủ yếu làm ruộng, song đa phần ruộng ở đây là chiêm trũng, hàng năm thường bị úng ngập bởi nước lũ sống Nhuệ nên năng suất lúa thấp và bấp bênh. Năm 1939, chính quyền thuộc địa Pháp cho nắn đoạn sông Nhuệ, từ địa phận của làng xuống làng Đan Nhiễm (huyện Thường Tín), làm cho đồng ruộng của làng cùng 16 làng khác trong vùng tiêu nước dễ hơn, nạn úng lụt đã giảm đáng kể. Đến năm 1942, người Pháp lại cho đào con máng từ Gò Quán làng Vĩnh Thịnh (xã Đại Áng) xuống cống Hai Cửa giáp làng Siêu Quần, để hạn chế thêm nạn úng lụt.
Đình làng Siêu Quần thờ hai vị thành hoàng. Vị đầu tiên là Trịnh Khả - người xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông là một trong 18 người có mặt tại Hội thề Lũng Nhai của Lê Lợi (năm Bính Thân - 1416), sau lập được nhiều chiến công trong việc đánh đuổi giặc Minh. Khi Lê Lợi lên ngôi (Lê Thái Tổ, 1428), ông được phong Hổ Vệ tướng quân, Thượng trụ quốc, Bình chương quân quốc trọng sự, khắc biển công thần. Về sau (năm 1451), do bị gian thần gièm pha, ông và cả con trai là Trịnh Bá Quát bị giết. Đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) được minh oan, trả lại quan tước, phong làm Phúc thần. Việc làng Siêu Quần thờ Trịnh Khả là do dân từ Sóc Sơn (Thanh Hóa) chuyển cư ra, đem theo cả thành hoàng ở làng gốc.
Vị thần thứ hai là Nguyễn Phục (? - 1470). Ông là người xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, đỗ Hoàng giáp khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái Hòa đời Vua Trần Nhân Tông (1453), làm quan đến chức Hàn lâm viện kiêm Vương phó (thầy dạy các vương tử). Năm Canh Dần (1470), Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, Nguyễn Phục được cử giữ chức Đốc lương (đốc suất vận chuyển lương thực). Đến cửa biển Tư Dung (gần thành phố Huế hiện nay), bị gió bão, thuyền lương đến chậm, Lê Thánh Tông nổi giận nên ông bị chém. Về sau, Vua biết ông bị oan, đã phong ôngg làm Phúc thần, nhiều làng xã vùng biển Tư Dung và ngoài Bắc thờ ông. Các triều vua về sau đều phong ông là "Đông Hải đại vương, Thượng đẳng thần". Việc làng Siêu Quần thờ ông là do có một bộ phận cư dân Huế từng thờ ông ở quê gốc chuyển cư ra đây.
