✨Quảng Nham
Quảng Nham là một xã ven biển nằm ở cực nam huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam, cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 20 km về phía nam.
Địa giới hành chính
Xã Quảng Nham nằm ở phía đông nam của huyện Quảng Xương, ven Vịnh Bắc Bộ. Phía đông giáp Biển Đông Phía nam giáp thị xã Nghi Sơn (ranh giới tự nhiên là sông Yên tại cửa Lạch Ghép) Phía tây giáp thị xã Nghi Sơn (ranh giới tự nhiên là sông Yên) Phía bắc giáp xã Quảng Thạch.
Điều kiện tự nhiên
Theo số liệu địa chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường, xã Quảng Nham có diện tích: 4,26 km². Theo số liệu của huyện Quảng Xương, xã này có diện tích 4,0 km², xã Quảng Nham có diện tích tự nhiên 398,96 ha, trong đó: Diện tích canh tác: 194,07 ha Diện tích đất nuôi trồng hải sản: 70,89 ha Diện tích đất trồng màu: 56,8 ha Diện tích đất ở: 50,35 ha Đất giao thông: 18,82 ha Đất nghĩa địa: 2,30 ha Đất xây dựng cơ bản: 3,34 ha Đất lâm nghiệp: 66,38 ha *Đất dùng các việc khác: 94,16 ha.
Xã Quảng Nham là một bán đảo nhỏ, có địa hình kéo dài theo hướng bắc - nam. Chiều dài bờ biển là 5,5 km, chiều dài bờ sông (sông Yên) là 3,2 km, gồm 18 xóm là Điền, Lũ, Quý, Thanh, Cự, Tân, Lợi, Thuận, Thắng, Tiến, Bình, Lâm, Hòa, Hải, Trung, Đức, Lực và Đông. Năm 1960 thành lập các hợp tác xã: Điền Trung, Trung Thành, Đức Thành, Kiêm Toàn, Công Lực, Đông Thành, Thống Nhất và Rạng Đông. Từ năm 1964 thành lập các hợp tác xã: Bắc Hải, Trung Hải, Tân Hải, Đông Hương, Tiền Phong, Nam Phong, Trung Phong, Trung Đông, Thành Hải và Tiền Tiến.
Năm 1964 mới đào lạch trị thủy cắt xã Quảng Nham thành hai làng: làng Mới và làng Đảo.
Hiện nay gồm 13 thôn: Bắc, Trung, Bình, Điền, Thanh, Hòa, Hải, Đông, Thuận, Thắng, Tiến, Đức và Tân.
Lịch sử
Từ trước năm 1964 làng Cự Nham có tên nôm là làng Mỏm Cự Nham.
Làng xã hình thành do mỏm cát bồi bởi sự hợp dòng giữa biển và sông, mỏm đất có độ tuổi khoảng nghìn năm. Trên mỏm đất ấy là một rừng cây cổ thụ rộng khoảng 3-4 ha, co đủ các giống cây khác nhau, các loài gỗ quý hiếm như: lim, gội, đa, thị, sếu, chòi mòi, bồ hòn, bứa, muỗm….
Ngoài người gốc là cư dân bản địa, còn có nhiều dòng họ từ vùng Xa Thư, Trần Cầu – Tự Lâm chuyển đến từ thế kỷ V-VI, có nhiều người nguồn gốc từ Quảng Bình chuyển ra, làm nghề đánh bắt cá biển ở vùng Cự Nham hay Cự Lẫm. Vào những năm đầu thời Lý (1010) một nhóm người từ Xa Thư, Trần Cầu di dời đến quanh chân núi Ghép (khu vực Tú Lâm, nay thuộc xã Quảng Thạch) để đánh bắt cá, dưới chân núi là con lạch Ghép, phía tây nam là rừng cây cổ thụ xanh tươi tốt.
Trong cuộc Nam chinh vào khoảng năm 1070, vua Lý Thánh Tông đã ghé vào lạch Ghép, lên bờ và nghỉ ngơi ở rừng cây cổ thụ, thấy cảnh sơn thủy hữu tình hùng vĩ. Nhà vua mới gọi dân bản địa đến và hỏi:
:- Làng chạ ở đấy tên gọi là gì? Và khu rừng đẹp kia đã có tên chưa?
Dân làng trả lời là làng chưa có tên và rừng cũng chưa có tên.
Thấy cư dân ở đấy người nào cũng cường tráng mặn mòi, giọng nói oang oang, dáng người chất phác thuận hòa, sống nơi đầu sóng ngọn gió, làm nghề đánh bắt cá trên biển bao la, nhà vua nghĩ đến chữ Cự vì tục ngữ có câu Có cứng mới đứng đầu sóng.
Quan sát dãy núi sừng sững trên đầu, nhà vua nghĩ là chữ Sơn. Nhìn xuống chân toàn là các loại đá to nhỏ, nhà vua hiểu đó là chữ Thạch, hai chữ đó ghép lại thành chữ Nham. Tên làng Cự Nham có từ ngày ấy.
Nhìn rừng cây cổ thụ rất đẹp, nhà vua nghĩ ngay đến từ chữ Hán là Tú Lâm, thế là làng Cự Nham, rừng Tú Lâm có tên từ ngày ấy.
Dưới tán rừng là một quần thể kiến trúc đình đền, chùa, miếu, lăng và đầy đủ cả một hệ thống văn hóa tâm linh cũng có độ tuổi hàng nghìn năm. Đặc biệt thời kỳ tiền khởi nghĩa và ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (2/9/1945), lá cờ đỏ sao vàng được treo trên cây đa gác chằng.
Ngày Đại hội Đảng bộ huyện Quảng Xương (tháng 2/1946) lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ Đảng Lao động Việt Nam đã tung bay trên cây đa gác chằng trước sân đền Phúc làng Cự Nham. Tuy nhiên, năm 1946 do nắn dòng sông Yên để trị thủy, người ta đã đào qua đền, qua rừng cây, trong đó có cây đa gác chằng.
Kinh tế, xã hội
Nghề nghiệp chính là đánh bắt nuôi trồng, chế biến thủy hải sản và dịch vụ nghề cá. Khoảng 60% dân số làm nghề đánh cá.
Đất ven biển Quảng Nham là cát trắng mịn, màu sa bồi, trồng cây cổ thụ và cây chắn cát, chắn gió rất tốt. Ở làng Tân và hầu hết toàn dân đều trồng cây sa mộc (phi lao) để chắn cát bay. Bãi ngang là một triền cát thoai thoải, gần cửa lạch, toàn đát cát nên không thể đắp được đê biển. Vì nguyên nhân trên nên bao đời nay trên bãi ngang ngư dân làng Mom chỉ làm bè mảng để ra khơi. Một bộ phận ngư dân có điều kiện hơn vào sông đóng các loại thuyền lớn, máy công suất lớn để đánh cá xa bờ.
Hiện nay đời sống kinh tế văn hóa, tinh thần của người dân trong xã đã được cải thiện đáng kể. Điện thoại, điện thoại di động, mạng Internet, sách báo... đã được phổ biến. Phần lớn con em trong xã trong độ tuổi đều được đi học. Cơ sở trường học, trạm y tế, đường sá... đã được xây dựng khá hoàn chỉnh.
Những năm gần đây, hầu hết lao động nghề cá của xã Quảng Nham hiện nay là đi làm xa quê hương, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh phía nam như Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu... Một bộ phận đáng kể nữa là người Quảng Nham hiện nay làm ăn tại các thành phố lớn cũng khá đông như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh...
Đảng bộ Đảng CSVN và nhân dân xã Quảng Nham có nhiều tiến bộ trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Phong trào xóa nhà tranh được thực hiện khá tốt, nhìn chung đời sống của bà con có nhiều chuyển biến tích cực. Điển hình nhất là phong trào không sinh con đông như ngày xưa, các gia đình trẻ hiện nay đã có ý thức tốt trong vấn đề kế hoạch hóa gia đình, lớp trẻ hiện nay ngày càng tham gia nhiều phong trào trong bộ máy chính quyền, phát huy sức trẻ xây dựng quê hương.
Di tích lịch sử, văn hóa
Làng Mom có Đền Phúc-Bia Tây Sơn
