✨Niên đại học
Niên đại học là khoa học về trật tự phát sinh sự kiện lịch sử theo thời gian. Niên đại học đại cương là khoa học định vị và dung giải chuỗi thời gian của các hiện tượng quá khứ theo thời gian theo truyền thống được coi là năm 753 TCN. Nó được một số ít các sử gia La Mã sử dụng để nhận ra các năm của người La Mã. Các sử gia hiện đại sử dụng nó còn thường xuyên hơn cả những người La Mã đã từng dùng; phương pháp chi phối trong nhận diện các năm La Mã là theo tên của hai quan chấp chính tối cao, những người đã từng nắm giữ cương vị vào năm đó.Trước khi có các ấn bản quan trọng hiện đại của các tác phẩm sử học La Mã, AUC đã từng được bổ sung bừa bãi vào chúng bởi các soạn giả sớm hơn, làm cho nó dường như là được sử dụng rộng rãi hơn so với việc sử dụng nó trên thực tế.
Lần đầu tiên nó được sử dụng có tính hệ thống chỉ vào khoảng năm 400, bởi sử gia người vùng Iberia là Orosius. Giáo hoàng Boniface IV, vào khoảng năm 600, dường như là người đầu tiên đã tạo ra kết nối giữa các năm của kỷ nguyên này và Anno Domini. (AD 1 = AUC 754.)
Kỷ nguyên thiên văn
Kỷ nguyên Anno Domini của Dionysius Exiguus (trong đó chỉ chứa các năm lịch AD) đã được Bede mở rộng để trở thành kỷ nguyên Kitô hoàn thiện (chứa bổ sung tất cả các năm lịch BC (TCN) nhưng không có năm 0). Mười thế kỷ sau Bede thì các nhà thiên văn người Pháp là Philippe de la Hire (năm 1702) và Jacques Cassini (năm 1740), chỉ thuần túy là để đơn giản hóa một số tính toán nhất định, đã đưa hệ thống ngày tháng Julius (được Joseph Scaliger đề xuất năm 1583) và cùng với nó là kỷ nguyên thiên văn vào sử dụng, trong đó chứa năm nhuận 0, đứng ngay trước năm 1 nhưng không trùng chính xác với năm 1 TCN. Các nhà thiên văn chưa bao giờ đề xuất một cách nghiêm túc việc thay thế kỷ nguyên của chúng ta (Công Nguyên) bằng kỷ nguyên thiên văn của họ (trùng khớp chính xác với kỷ nguyên Kitô khi nó liên quan tới các năm lịch sau năm 4).
Các bảng niên đại tiền sử
Trong khi có tầm quan trọng thiết yếu đối với các sử gia, thì các phương pháp xác định niên đại cũng được sử dụng trong nhiều ngành khoa học, đặc biệt là trong thiên văn học, địa chất học, cổ sinh học và khảo cổ học.
Trong khi không có lịch sử bằng văn bản, nhưng với các biên niên sử của nó và danh sách các vị vua, các nhà khảo cổ học cuối thế kỷ 19 đã phát hiện thấy là họ có thể tạo ra các bảng niên đại tương đối, dựa trên các kỹ thuật và kiểu dáng đồ gốm. Trong lĩnh vực Ai Cập học, William Flinders Petrie là tiên phong trong xác định niên đại theo chuỗi để nhìn thấu vào thời gian tiền triều đại thuộc thời đại đồ đá mới, sử dụng các nhóm cổ vật cùng thời đã tích tụ lại cùng nhau ở một thời điểm trong các ngôi mộ và làm việc có phương pháp ngược trở lại từ các giai đoạn lịch sử sớm nhất của Ai Cập. So sánh với kỹ thuật sắp xếp thứ tự ở Bắc Mỹ.
Biết được các đồ tạo tác đôi khi được phát hiện tại các địa tầng của các di chỉ rất xa nhau, sản phẩm của thương mại, giúp mở rộng mạng lưới các bảng niên đại. Một số nền văn hóa được đặt tên gọi theo tham chiếu tới các dạng đặc trưng, vì thiếu ý tưởng về việc người ta nên gọi chúng như thế nào, chẳng hạn như "văn hóa cốc vại" (văn hóa Beaker) ở miền bắc châu Âu trong thiên niên kỷ 3 TCN. Việc nghiên cứu các cách thức, phương tiện trong việc đặt đồ gốm và các đồ tạo tác văn hóa khác vào một số kiểu trật tự diễn ra thành hai giai đoạn, là phân loại và loại hình học. Phân loại tạo ra các thể loại cho các mục đích miêu tả còn loại hình học tìm kiếm để nhận dạng và phân tích các thay đổi để cho phép các đồ tạo tác có thể được đặt vào trong các chuỗi.
Các kỹ thuật phòng thí nghiệm phát triển mạnh từ giữa thế kỷ 20 đã hỗ trợ thường xuyên hơn trong sửa đổi và gạn lọc các bảng niên đại được lập ra cho các khu vực văn hóa cụ thể. Các phương pháp xác định ngày tháng không liên quan cũng hỗ trợ và củng cố thêm cho niên đại học, một tiên đề của chứng cứ xác thực. Một cách lý tưởng, các vật liệu khảo cổ học được sử dụng để xác định niên đại của di chỉ cần bổ trợ lẫn nhau và cung cấp phương tiện để kiểm tra chéo. Các kết luận rút ra từ chỉ một kỹ thuật không được hỗ trợ thông thường bị coi là không tin cậy.
Phân tích niên đại học
Một vài nguồn truyền thuyết có xu hướng gán tuổi thọ dài phi thực tế cho các vị anh hùng hay vị vua tiền sử (chẳng hạn người Ai Cập, Do Thái, Nhật v.v), nếu như số lượng năm đã thông báo được hiểu như là các năm có trên 340 ngày. Mặc dù hiện nay thì các bảng niên đại đã phát triển có hệ thống trước thập niên 1960 bị người ta hoài nghi thật sự, nhưng các kết quả gần đây hơn có sức thuyết phục cao hơn nhiều so với những gì sẵn sàng xuất hiện trước các nhà báo và những người nghiệp dư đầy lòng say mê. Suy luận Bayes có thể được áp dụng trong phân tích thông tin niên đại, bao gồm cả các dữ liệu ngày tháng năm suy ra từ xác định bằng cacbon phóng xạ.
Từ nguyên học
Niên đại học trong tiếng Việt là cụm từ gốc Hán-Việt, bắt nguồn từ 年代学, nghĩa là khoa học nghiên cứu sự thay đổi theo năm.
Từ để chỉ niên đại học trong một số ngôn ngữ châu Âu có nguồn gốc từ tiếng Latinh chronologia (từ tiếng Hy Lạp cổ - chronos, "thời gian" + - nói về, nghiên cứu của) là một biên niên sử hay sự sắp xếp các sự kiện theo trật tự xuất hiện của chúng.
