✨Nghị quyết 82 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Nghị quyết 82 được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (HĐBA) thông qua vào ngày 25 tháng 6 năm 1950. Nghị quyết này lên án "cuộc tấn công vũ trang vào Hàn Quốc của các lực lượng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên", đồng thời kêu gọi "chấm dứt ngay lập tức các hành động thù địch" và "chính quyền Bắc Triều Tiên phải rút ngay lực lượng vũ trang về vĩ tuyến 38". Nghị quyết này được thông qua với 9 phiếu thuận, không có phiếu phản đối và một phiếu trắng của Liên Xô, khi nước này đang tẩy chay Liên Hợp Quốc vì công nhận Trung Hoa Dân Quốc là đại diện của Trung Quốc tại tổ chức này.
Bán đảo Triều Tiên đã bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38 dưới sự chiếm đóng của lực lượng Hoa Kỳ và Liên Xô kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Mỗi bên đều tìm cách hỗ trợ chính phủ ở phía bên biên giới của mình, và khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu hình thành, căng thẳng gia tăng khi mầm mống xung đột phát triển ở Triều Tiên. Điều này lên đến đỉnh điểm khi miền Bắc xâm chiếm miền Nam vào ngày 25 tháng 6. Liên Hợp Quốc (LHQ), dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ đã ủng hộ Hàn Quốc, coi đây là chính phủ hợp pháp duy nhất trên bán đảo.
Nghị quyết kêu gọi Bắc Triều Tiên chấm dứt ngay cuộc xâm lược và rút quân về vĩ tuyến 38. Nghị quyết được coi là một chiến thắng ngoại giao của Hoa Kỳ, nhưng lại bị Bắc Triều Tiên hoàn toàn phớt lờ. Họ coi sự tham gia của Liên Hợp Quốc chỉ là sự ủy quyền của Hoa Kỳ. LHQ và Hoa Kỳ đã có những động thái tiếp theo nhằm tạo tiền đề cho sự can thiệp quốc tế và leo thang chiến tranh hơn nữa, đẩy đến kết cục là hàng triệu người Triều Tiên thiệt mạng. Trung Quốc tham gia cuộc chiến theo phe Bắc Triều Tiên, còn Không quân Hoa Kỳ đã thả hàng trăm nghìn tấn bom xuống bán đảo trong suốt nhiều năm bế tắc.
Bối cảnh
thumb|[[Tổng lý Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành]]
Chia đôi bán đảo Triều Tiên
Vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, thời điểm này bán đảo Triều Tiên vẫn đang bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng, sau đó bán đảo bị phe Đồng minh chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38 Bắc. Liên Xô đã chuyển lực lượng về nửa phía bắc của bán đảo, giám sát việc thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) dưới quyền Kim Nhật Thành, một nhân vật trước đây nổi tiếng nhờ những chiến công của mình trong trận chiến với quân Nhật. Khi căng thẳng gia tăng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, cả hai chính phủ trên hai miền bán đảo đều tuyên bố họ có chủ quyền đối với toàn bộ bán đảo.
Ngày 14 tháng 11 năm 1947, Nghị quyết 112 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thành lập một ủy ban tạm thời để giám sát các cuộc bầu cử tự do ở Triều Tiên. LHQ có ý định thống nhất Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của một chính phủ duy nhất,
Khi áp lực gia tăng, chính phủ Bắc Triều Tiên trở nên hung hăng hơn, với các cuộc giao tranh giữa miền Bắc và miền Nam xảy ra thường xuyên hơn. Các giám sát viên quân sự của LHQ được giao nhiệm vụ theo dõi tình hình, bề ngoài là để ngăn chặn xung đột leo thang. Nghị quyết 293 của Đại Hội đồng, thông qua ngày 21 tháng 10 năm 1949, công nhận chính phủ Hàn Quốc là chính quyền hợp pháp duy nhất. Lực lượng Bắc Triều Tiên vượt trội về số lượng đã vượt qua các cuộc kháng cự yếu ớt của 38.000 binh sĩ Hàn Quốc ở biên giới, trước khi bắt đầu di chuyển đều đặn về phía nam. Hầu hết lực lượng Hàn Quốc đã rút lui trước cuộc xâm lược.
Tin tức về cuộc xâm lược nhanh chóng lan truyền khắp thế giới thông qua các đại sứ và phóng viên tại Hàn Quốc. Các nhà báo ở Hoa Kỳ đã đưa tin về cuộc xâm lược trong vòng năm giờ kể từ cuộc tấn công đầu tiên, và Đại sứ Hoa Kỳ tại Hàn Quốc John J. Muccio đã gửi một bức điện tín tới Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lúc 10:26 giờ Hàn Quốc ngày 24 tháng 6. Khi cuộc chiến diễn ra ngày càng căng thẳng, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Acheson thông báo tin tức cho Tổng thống Truman khi ông đang nghỉ ngơi tại nhà riêng ở Missouri vào cuối tuần. Đồng thời, ông thông báo cho Tổng Thư ký LHQ Trygve Lie về tình hình chiến sự. Cuộc tấn công đặc biệt gây sửng sốt cho Truman, ông so sánh nó với cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật Bản. Còn đối với Lie, nó gợi nhớ cho ông đến cuộc xâm lược Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lo sợ cuộc tấn công sẽ thúc đẩy một cuộc chiến tranh chung khác giữa các cường quốc, Truman quyết tâm hành động nhanh nhất có thể để ngăn chặn xung đột leo thang. Lý Thừa Vãn gặp Muccio và thông báo rằng Quân đội Hàn Quốc sẽ hết đạn trong vòng 10 ngày và sẽ không thể tự mình ngăn chặn cuộc tiến quân của Bắc Triều Tiên. Ông yêu cầu LHQ và Hoa Kỳ hỗ trợ Hàn Quốc trong cuộc xung đột.
Trygve Lie triệu tập phiên họp Hội đồng Bảo an lần thứ 473 vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 6 tại Thành phố New York. Ông bắt đầu cuộc họp với một báo cáo chi tiết từ Ủy ban Liên Hợp Quốc về Triều Tiên, giải thích tình hình cho các đại biểu và nhấn mạnh rằng LHQ phải hành động để lập lại hòa bình ở Triều Tiên. Theo Ủy ban Liên Hợp Quốc về Triều Tiên, tình hình đang mang tính chất của một cuộc chiến tranh toàn diện.
Hoa Kỳ đưa ra nghị quyết nói rằng cuộc xâm lược của Bắc Triều Tiên là vi phạm hòa bình, vi phạm Chương VII của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Nội dung nghị quyết
Tạm dịch:
Nghị quyết được thông qua với 9 phiếu thuận của các nước Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Trung Hoa Dân Quốc, Pháp, Cuba, Ecuador, Na Uy, Ai Cập và Ấn Độ. Aleš Bebler, đại diện của Nam Tư, bỏ phiếu trắng. Trygve Lie là người ủng hộ mạnh mẽ nghị quyết này, vì ông coi cuộc xung đột là một thách thức đối với quyền lực của LHQ.
Hệ quả
Nghị quyết này được coi là một chiến thắng chính trị của Hoa Kỳ, vì nó xác định Bắc Triều Tiên là kẻ xâm lược trong cuộc xung đột.
Phái đoàn Hoa Kỳ sau đó đã liên lạc với phái đoàn Liên Xô và gửi thông điệp yêu cầu Điện Kremlin dùng ảnh hưởng của họ đối với Bắc Triều Tiên để buộc nước này tuân thủ nghị quyết, nhưng Liên Xô từ chối yêu cầu. Do nghị quyết không hiệu quả trong việc giảm leo thang xung đột, HĐBA đã triệu tập vào ngày 27 tháng 6 để thảo luận về các hành động tiếp theo cần thực hiện. Lần triệu tập này thông qua Nghị quyết 83, khuyến nghị các quốc gia thành viên LHQ khác can thiệp quân sự để lập lại hòa bình ở Hàn Quốc. Trong vòng vài ngày, tàu và máy bay từ một số quốc gia, cũng như đội hình lớn đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ đã di chuyển đến Hàn Quốc tạo tiền đề cho một cuộc xung đột toàn diện.
Năm 2010, Colum Lynch đã viết một chuyên mục trên tạp chí Foreign Policy, chỉ trích nghị quyết này là một trong mười nghị quyết tồi tệ nhất trong lịch sử LHQ. Sau khi chấm dứt việc tẩy chay LHQ, Liên Xô đã sử dụng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn mọi nghị quyết tiếp theo chống lại Bắc Triều Tiên. Ở chiều ngược lại, Acheson đưa ra một thủ tục mới với Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về cho phép một quốc gia thành viên bỏ qua HĐBA và trực tiếp xin sự đồng thuận của Đại Hội đồng, bao gồm các khuyến nghị về sử dụng vũ lực, trong Nghị quyết 377 của HĐBA. Khi điều này được thông qua, nó đã cho phép mở Phiên họp khẩn cấp Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc để giải quyết các mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh quốc tế, khi mà HĐBA không thể thông qua nghị quyết. Lynch viết rằng việc tạo ra quy tắc này đã gây ra những hậu quả tiêu cực không lường trước được đối với Hoa Kỳ vào năm 1997, khi một số quốc gia Ả Rập mở Phiên họp khẩn cấp lần thứ 10 Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc để giải quyết xung đột Israel–Palestine và việc Israel chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza. Phiên họp này được triệu tập nhằm tránh bị Hoa Kỳ phủ quyết. Nó kéo dài tới 30 cuộc họp trong 10 năm tiếp theo và chưa bao giờ chính thức kết thúc.
