✨Nghêu
nhỏ|phải|Cấu tạo bên trong của một con nghêu Nghêu hay ngao là tên gọi dùng để chỉ các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ (nhuyễn thể) thuộc họ Veneridae chuyên sống ở vùng nước ven biển có độ mặn cao, nhiều đất cát sỏi, phân bố khá phổ biến ở vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nghêu có thân hình tròn, màu trắng hoặc vàng nhạt. Đây là loài hải sản có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, không tốn nhiều công chăm sóc. Dù quá trình trưởng thành của nghêu có rất nhiều rủi ro, nhưng với số lượng trứng nhiều, nên loài nghêu hiện đã trở thành vật nuôi khá dễ dàng, ít tốn kém.
Đặc điểm sinh học
Vùng sinh sống
Nghêu thích sống ở bãi triều trên vùng biển cạn. Chất đáy nơi nghêu phân bố là cát pha bùn (tỷ lệ cát thích hợp là 60 - 70%) hay sống vùi trong đáy cát bùn của vùng triều, chủ yếu ở giải triều giữa và dưới triều, có thể gặp ở độ sâu 4m. Trong tự nhiên chưa gặp loài này ở vùng đáy bùn, đáy rắn chắc.
Trong ống tiêu hoá của nghêu thấy: mùn bã hữu cơ 75-90%, còn lại là sinh vật phù du chủ yếu là tảo Silic phù du: Bacillariopyceae (90-95%), tảo giáp Dinophyceae (3,3-6,6%), tảo lam, tảo lục, tảo kim mỗi loại từ 0,8-1,0%.
Nghêu "cám" bé bằng nửa hạt gạo, vỏ mỏng, dẹp, nặng 0,04-0,07 g (15.000-25.000 con/kg) vùi sâu xuống cát khoảng 1 cm, lên kiếm ăn theo thủy triều và thường bị sóng cuốn và dòng triều đưa đi tương đối xa, có khi dạt lên cao, bị phơi khô mà chết. Sau khoảng hơn 1 tháng, nghêu cám lớn thành nghêu giống, nặng 0,16-0,20 g (5.000-6.000 con/kg), vỏ đã tương đối cứng, có thể đem ươm ở các bãi. Nghêu sinh trưởng rất nhanh, sức sinh sản lớn, sản lượng khai thác hàng năm tương đối cao, phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, chính vì thế chúng trở thành đối tượng kinh tế của ngư dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long làm cho nghề nuôi nghêu phát triển tuy vậy cũng cần đặt ra vấn đề khai thác hợp lý để bảo vệ nguồn lợi này
Các món ăn từ nghêu rất có ích cho sức khỏe (do có nhiều chất dinh dưỡng). Trong 100 g thịt nghêu có chứa 10,8 g chất đạm, 1,6 g chất béo, nhiều nguyên tố vi lượng như kẽm (180 mg), sắt (24 mg), calcium, mangan, đồng, iod, selen… và các vitamin B1, B6, B12, C. Tuy nhiên, những người tì vị hư hàn (thường đi tiêu lỏng, ăn uống kém, bụng đầy hơi, chậm tiêu) thì không nên ăn nghêu.
Nghêu còn giàu giá trị dinh dưỡng, giúp cơ thể bổ sung nhiều chất và tăng cường khả năng chống bệnh. Nghêu giúp Ngăn chặn bệnh Alzheimer và bệnh thiếu máu, Chống bệnh viêm khớp, Tăng cường hệ miễn dịch, Giúp điều tiết nồng độ đường trong máu, Giúp răng lợi khỏe mạnh, Tốt cho tuyến giáp, Giàu chất riboflavin, Tăng cường hoạt động tình ái, Giàu kali, Tốt cho người ăn kiêng và bệnh tim.
Nghêu dùng làm nguyên liệu đế chế biến nhiều món ăn ngon như: bún nghêu chua cay thì là canh gà nấu nghêu một số món ăn khoái khẩu như hấp sả ăn chơi, chấm mắm pha tỏi ớt hay muối tiêu chanh, nghêu xốt chua ngọt.. Tuy vậy cũng cần chú ý đến yếu tố vệ sinh, chế biến vì có thông tin cho rằng nghêu và nhiều loài đều tích luỹ cả ba loại độc tố tảo ASP, PSP và DSP trong mô nội tạng..
Các loài
thumb|upright|Một trong những hóa thạch ngao lớn nhất (187 cm), một mẫu vật Sphenoceramus steenstrupi từ Greenland tại Bảo tàng Địa chất tại Copenhagen thumb|right|Loài [[Tridacna maxima]]
Ăn được:
- Ruditapes decussatus Mercenaria mercenaria Venerupis philippinarum Mya arenaria Spisula solidissima
- Arctica islandica
- Siliqua patula *Tivela stultorum
- Panopea abrupta hoặc Panope generosa
- Ensis directus
- Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) *Họ Sò (chủ yếu phổ biến ở Indonesia và Singapore)
Thường không coi là ăn được: Họ Nuculidae Họ Mactridae Họ Hến Họ Limidae Sò tai tượng (Tridacna gigas) Chi Corbicula
- Scrobicularia plana
Nuôi nghêu
Mùa vụ và thời gian nuôi: nuôi nghêu thương phẩm gần như quanh năm, tập trung vào tháng 1 đến tháng 3. Thời gian nuôi phụ thuộc nhiều vào cỡ giống, mật độ thả và điều kiện bãi nuôi. Vào mùa mưa, di chuyển bãi nuôi nghêu ra xa hơn, vào mùa nắng thì di chuyển bãi nuôi gần bờ. Khi triều xuống, đi thu bắt ốc mỡ trơn (Polynices didyma Bottem) và ốc mỡ hoa (Natica maculosa Lamarch) vì chúng ăn nghêu nhỏ. Nên thu hoạch nghêu lúc đạt kích cỡ vừa, sau 8-10 tháng nuôi. Chọn thu hoạch vào lúc cuối mùa mưa, là lúc nghêu mập, nặng ký, ngon. Tiến hành thu hoạch vào lúc triều rút, lúc chúng đã được ăn no và thải ra các thức ăn thừa thãi, chỉ giữ lại nước nên thịt nghêu sẽ rất sạch (ngược lại, lúc triều lên, nghêu thường ngậm cát, bùn).
