✨Nam Ô
Nam Ô là một ngôi làng cổ, cửa ô phía Nam của nước Đại Việt xưa, hình thành cách ngày nay hàng trăm năm, nằm bên vịnh Đà Nẵng, dưới chân đèo Hải Vân, bên lề đường thiên lý thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; là một làng nghề truyền thống khai thác, đánh bắt thủy hải sản, làm nước mắm và làm pháo.
Làng cổ Nam Ô còn xuất hiện trong bộ phim ngắn với dung lượng gần 01 phút đầu tiên tại Việt Nam với tiêu đề "Le Village de Namo", tác giả Gabriel Veyre của Hãng Lumière (Pháp) thực hiện năm 1896, và được chiếu ở Pháp vào năm 1900, nơi diễn ra trận chiến giải cứu công chúa Huyền Trân từ Chiêm Thành của nhà Trần.
Lịch sử
Nam Ô thuộc vương quốc Champa, về sau, vào khoảng đầu thế kỷ XIV, khi Chế Mân dâng châu Ô, châu Lý cho Đại Việt vào năm 1306 để cưới công chúa Huyền Trân, vùng đất này trở thành cửa ô phía Nam của Đại Việt nên có tên gọi Nam Ô, và từ đó, người Việt bắt đầu di cư đến sinh sống ở vùng này. Năm 1471, trong cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông, lại có thêm rất nhiều cư dân người Việt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,... vào vùng đất "ô châu ác địa" này để sinh sống. Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Đàng Trong, các đợt di dân vào vùng đất này diễn ra ngày càng nhiều. Trong Đại Nam nhất thống chí có chép về địa danh Nam Ô như sau: "Núi Cu Đê cách huyện Hòa Vang 28 dặm về hướng bắc, lại có tên là núi Hoa Ổ (tên Nam Ô trước đây) rất nhiều ve, người địa phương bắt nấu, vị rất ngon. Mùa thu, mùa đông cầu vồng hiện ở phía nam núi, người ta lấy mà chiêm nghiệm mưa lụt. Núi thấp nhỏ, gỗ tạp mọc xanh um".
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thương hiệu "Nước mắm ở Nam Ô" nổi tiếng ở nhiều vùng, đến năm 2009, nhãn hiệu này được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy bảo hộ. Hiện nay, tại Nam Ô có trên 100 hộ dân sống bằng nghề làm nước mắm thủ công rất lâu đời ở quy mô hộ gia đình. Các hộ sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, phân bố rải rác trong khu dân cư.
Làm pháo
Nam Ô từng là làng nghề làm pháo nổi tiếng cả nước, "sánh vai" với các làng pháo Đồng Kỵ, Bình Đà, là kế sinh nhai của hàng nghìn hộ dân. Nghề làm pháo bắt đầu từ thời nhà Trạm Nam Ô. Thời ấy, trước những cơn quốc biến, quân binh nhà Trạm dùng pháo làm hiệu hỏa tốc thay cho ngựa trạm, khi pháo chuyển về từ kinh thành không kịp, nhà Trạm sai phái người trong làng dùng thuốc súng sẵn có để làm những viên pháo tre thay thế. Qua cơn binh biến, người Nam Ô tiếp tục mày mò làm những viên pháo kết lại thành dây đốt cho vui tai trong các ngày hội làng, ngày Tết. Đến năm 1858 (năm Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất), nghề làm pháo trở lên hoạt động náo nhiệt và nhộn nhịp nhất.
Pháo ở Nam Ô có hai loại pháo: pháo nổ và pháo hoa. Vào năm 1934, nghệ nhân pháo hoa của làng có tên Cửu Mai được triệu về kinh đô Huế để dựng giàn pháo hoa kịp trình diễn trong ngày đại lễ cưới của hoàng đế Bảo Đại với Nam Phương Hoàng hậu, từ việc này, nghệ nhân được vua ban hàm Chánh Cửu phẩm.
Lăng Ông Ngư
Cá Ông hay cá Ông Voi là tên mà dân vạn chài thường gọi đối với cá voi.
Giai thoại
Ở Nam Ô còn lưu truyền câu chuyện về trận chiến giải cứu Huyền Trân công chúa nhà Trần. Năm 1306, Huyền Trân trở thành vợ của vua Chế Mân, được tấn phong Hoàng hậu với mỹ hiệu Paramesvari. Sau gần một năm sau, vua Chế Mân qua đời, theo tục lệ của người Chiêm, "vua chết, hậu phải chết theo", nhưng do Huyền Trân đang mang thai nên việc hỏa thiêu được phép lùi lại. Biết chuyện, tháng 10 năm 1307 vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn đi thuyền sang Chiêm quốc viếng tang và tìm cách giải cứu Huyền Trân về Đại Việt.
Trên đường trở về Đại Việt, đoàn quân của võ tướng Trần Khắc Chung cùng công chúa Huyền Chân có ghé qua làng Nam Ô, được dân làng tiếp đón và che chở một thời gian. Khi ở làng Nam Ô, quân Chiêm biết được và đến bao vây, một viên tùy tướng của Trần Khắc Chung chỉ huy một toán quân liều chết đánh chặn hậu để Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ đưa Công chúa Huyền Trân ra khơi trở về Đại Việt. Khi đoàn thuyền đưa công chúa mờ khuất ngoài khơi xa, vị tướng giữ nhiệm vụ đánh chặn hậu anh dũng hy sinh. Để tưởng nhớ vị tướng đã anh dũng hy sinh trong trận chiến, dân làng chôn cất và phong làm tiền hiền của làng. Một dị bản khác thì cho rằng khi cả đoàn lên thuyền, một tùy tướng tình nguyện ở lại để trở thành người đầu tiên sống và chết ở Nam Ô. Ông chính là vị tiền hiền được người dân Nam Ô thờ phụng hôm nay.
Cho đến ngày nay, ngôi mộ thờ vị tướng vẫn còn, hàng năm, vào ngày 24 tháng 6 âm lịch hàng năm dân làng tổ chức giỗ tiền hiền của làng và xướng lên văn tế có từ hàng trăm năm trước: "Cổ vân lôi ư, tam cấp vũ môn, ninh kiến hà trừng thiên lý/ Chiêm phong lãng ư, kỷ trùng hoàng hải, vĩnh khang thốn tức thôn kình" (Sấm mây xưa hử, qua mấy màn mưa, lặng nhìn thấy đâu ngoài thiên lý/ Sóng gió Chàm hừ, bồn chồn nhớ nước, kiên gan chờ nuốt cả kình ngư). Về sau, để ghi nhớ công đức mở đất phương Nam của Công chúa Huyền Trân, dân làng Nam Ô lập miếu thờ bà.
