✨Musashi (thiết giáp hạm Nhật)
Musashi (tiếng Nhật: 武蔵, Vũ Tàng), tên được đặt theo tên một tỉnh cũ của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là soái hạm của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Nó là chiếc thứ hai trong lớp Yamato, và nó cùng với chiếc tàu chị em với nó, chiếc Yamato, là những thiết giáp hạm lớn nhất và nặng nhất từng được chế tạo, với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên đến 72.800 tấn và được trang bị chín khẩu pháo 460 mm (18,1 inch).
Được chế tạo từ năm 1938 đến năm 1941 và được chính thức đưa ra hoạt động vào mùa Hè năm 1942, Musashi phục vụ như là soái hạm của các Đô đốc Tư lệnh Hạm đội Liên hợp Yamamoto Isoroku và Mineichi Koga trong năm 1943. Trong suốt năm 1943, Musashi hầu như ở lại các cảng chính tại Truk, Kure và Brunei, di chuyển nhiều lần giữa các căn cứ này đối phó các cuộc không kích của Mỹ. Musashi bị máy bay Mỹ đánh chìm vào ngày 24 tháng 10 năm 1944 trong trận chiến vịnh Leyte.
Thiết kế và chế tạo
Musashi là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm hạng nặng Yamato, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiết kế vào năm 1937. Musashi và những con tàu chị em với nó được chế tạo với khả năng có thể đối địch cùng một lúc với nhiều tàu chủ lực đối phương, như là một phương thức bù trừ cho sự yếu kém của Nhật Bản về tiềm năng sản xuất công nghiệp không thể so được đối với Hải quân Hoa Kỳ. Với mỗi chiếc tàu chiến lớp Yamato với trọng lượng rẽ nước trên 70.000 tấn, người ta kỳ vọng vào hỏa lực cực mạnh của Musashi cùng các tàu chị em với nó thể vượt qua sức mạnh công nghiệp của Hoa Kỳ. Việc ngụy trang này có hiệu quả đến mức Tòa Lãnh sự Mỹ ở phía đối diện bên kia vịnh nơi chiếc Musashi được chế tạo đã không hề biết đến sự hiện diện của nó trong quá trình chế tạo. Musashi được hạ thủy vào ngày 1 tháng 11 năm 1940, và Thuyền trưởng (sau này là Phó Đô đốc) Kaoru Arima được chỉ định làm Sĩ quan Trang bị trưởng đầu tiên của con tàu. Mỗi khẩu dài 21,1 m (69 ft 3 in), nặng 147,3 tấn và có khả năng bắn các đầu đạn nổ hoặc xuyên thép đi xa 42 km (26 dặm).
Pháo hạng hai của nó gồm có: 12 pháo 155 mm (6,1 inch) bố trí trên bốn tháp pháo ba nòng (một phía trước, hai ở giữa và một phía sau tàu) 24 pháo 127 mm (5 inch) Vào tháng 12 năm 1942, sau các đợt thực hành máy bay cùng tàu sân bay Zuikaku, Musashi được công bố đi vào hoạt động. Mười lăm ngày sau, do giải mã được các bức điện nhờ hệ thống Ultra, máy bay Mỹ đã tổ chức phục kích và Yamamoto bị giết khi máy bay của ông bị bắn rơi đang khi trên đường từ New Britain đến Ballale thuộc Bougainville. Liền ngay sau đó, Musashi gia nhập một lực lượng lớn hơn đáng kể nhằm phản công hạm đội Mỹ ngoài khơi Attu. Tuy nhiên, do Attu thất thủ trước khi lực lượng Hải quân Nhật có thể tập trung đầy đủ, kế hoạch phản công bị hủy bỏ và Musashi quay trở về Nhật Bản. Bảy ngày sau, hạm đội quay trở về Truk mà không bắt gặp được lực lượng đối phương. Sang tháng 10, do những nghi ngờ về một kế hoạch của Mỹ không kích lên đảo Wake, Musashi dẫn đầu một hạm đội lớn dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Mineichi Koga: ba tàu sân bay, sáu thiết giáp hạm và mười một tàu tuần dương nhằm đánh chặn lực lượng Mỹ. Sau khi không bắt gặp được lực lượng đối phương, hạm đội quay trở về Truk ngày 26 tháng 10 năm 1943. Nhờ các tàu hộ tống phát hiện các đợt sóng ngư lôi, Musashi đã có thể né tránh được năm trong số sáu quả ngư lôi. Một quả đã đánh trúng gần mũi tàu, khiến ngập nước phòng dò âm dưới nước và thiệt mạng 18 người. Hai ngày sau, khi Ozawa nhận được tin tức về cuộc tấn công của Mỹ xuống Saipan, Hạm đội 2 chuyển hướng từ Biak đến quần đảo Mariana. Tiếp theo sau thất bại tai hại của Nhật trong trận đánh này với hai tàu sân bay và khoảng 450 máy bay bị mất, Hạm đội 2 quay trở về Nhật Bản. Vào ngày 10 tháng 7 năm 1944, Musashi rời Okinawa đi Singapore cùng chiếc tàu chị em với nó Yamato. Kế hoạch của Nhật Bản dự định sử dụng lực lượng tàu sân bay của Đô đốc Ozawa để nhử lực lượng tàu sân bay Mỹ ở phía Bắc đảo Leyte, khiến cho lực lượng trung tâm của Phó Đô đốc Takeo Kurita có thể tiến vào vịnh Leyte và tiêu diệt lực lượng đổ bộ của Mỹ ở đảo này. Sang ngày 24 tháng 10 năm 1944, trong khi đang di chuyển ngang qua biển Sibuyan, lực lượng trung tâm của Kurita chịu đựng một cuộc không kích nặng nề của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ gồm năm đợt riêng biệt. Khởi đầu trận chiến, phi công Mỹ từ các tàu sân bay, chủ yếu là từ Essex, Franklin và Intrepid, tập trung xoáy vào điểm yếu của chiếc Musashi là khiếm khuyết ở vỏ giáp gần mũi con tàu, và đã gây hư hỏng nặng cho con tàu trong ba đợt tấn công đầu tiên, khiến tốc độ của con tàu bị giảm xuống còn 18 km/h (10 knot). Có 1.023 người trong tổng số 2.399 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng, số còn lại được các khu trục hạm Nhật cứu vớt nhiều giờ sau đó. Mười tám máy bay Mỹ đã bị mất trong trận tấn công này.
