✨Mẹ Việt Nam (trường ca)
Bìa CD hợp tuyển 2 trường ca: [[Con đường cái quan (trường ca)|Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam, thu âm năm 1965, chỉnh sửa và tái phát hành năm 1993.|thế=]] Mẹ Việt Nam là tên một bản trường ca của Phạm Duy, khởi soạn tháng 11 năm 1963 và hoàn tất vào tháng 5 năm 1964. Đây là trường ca thứ hai của Phạm Duy sau Con đường cái quan và cùng với Con đường cái quan là 2 trường ca nổi tiếng nhất của ông.
Tại Việt Nam, từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cũng như những ca khúc khác của Phạm Duy, trường ca này bị cấm lưu hành và đến nay vẫn chưa được phép trình diễn, tuy một số ca khúc khác của ông đã được cấp phép.
Nội dung
Bài trường ca mang hình ảnh người mẹ Việt Nam, một khái niệm trừu tượng trong dân gian, qua đó đã đồng hóa thành lịch sử Việt Nam và gửi gắm thông điệp tình thương dân tộc. Theo lời tác giả mô tả, đây
Trường ca gồm 4 phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ và Biển mẹ, mỗi phần có nhiều bài, tổng cộng là 21 bài hát, những bài này cũng thường được các ca sĩ hát như bài độc lập.
Đất mẹ
Phần Đất mẹ gồm 3 đoạn, chia làm 5 bài:
Đoạn 1 gồm 2 bài: Mẹ ta, Mẹ xinh đẹp Đoạn 2 gồm 2 bài: Mẹ chờ mong, Lúa mẹ *Đoạn 3: Mẹ đón cha về
Trong đó, đoạn 1 làm nổi bật đặc điểm hình dáng của mẹ khi còn là thiếu nữ (má tươi hồng, bàn tay trắng, nhỏ người, vai lẳn, vú căng tròn, lưng ong, tóc mây ngàn, chân dài, v.v.):
:Mẹ Việt Nam, không son không phấn :Mẹ Việt Nam, chân lấm tay bùn :Mẹ Việt Nam, không mang nhung gấm :Mẹ Việt Nam, mang tấm nâu sồng...
Bốn câu này được Xuân Vũ nhận xét trong cuốn Nửa thế kỷ Phạm Duy: "Tôi xin chịu. Không có ai mô tả Mẹ Việt Nam nổi đến thế. Mà chỉ trong có 16 chữ! Như thế là quá tài tình vì tả thể chất mà người đọc nhận thấy cả tâm hồn. Tấm áo nâu, rướn mình đi từ núi rừng cao ở bản tình ca càng nổi bật ở đây, vì là tấm nâu sồng của Mẹ Việt Nam là tấm áo nâu mang hồn sông núi. Những ý tưởng cao đẹp tuôn trào ra ngón đàn."
Đặc biệt, câu "Nhỏ người, vai lẳn, vú căng tròn, trần lưng ong" mô tả người mẹ trong chiếc áo yếm truyền thống, trang phục thể hiện sự đảm đang và nét đẹp thanh nhã, khả ái của người phụ nữ Việt.
Trong đoạn 2, hình ảnh mẹ mong chồng được nhắc tới qua những hình ảnh quen thuộc của đất nước Việt Nam như: ruộng lúa, lưỡi cày, đất..., mang hình ảnh của Nữ Oa, tiểu Kính Tâm, Châu Long, những nhân vật tiêu biểu cho đức tính tốt đẹp được truyền tụng trong dân gian. Đoạn 3 tả niềm vui của mẹ khi đón cha về, đồng thời ca ngợi công lao của mẹ trong những cuộc kháng chiến của dân tộc:
:Việt Nam có anh hùng, mắt nhung và môi son :Giữa mùa xuân giết giặc :Yêu nước non, hé môi cười :Nụ cười thanh bình :Mẹ Việt Nam.
Núi mẹ
Phần Núi mẹ gồm 3 đoạn, chia ra làm 5 bài: Đoạn 1 gồm 2 bài: Mẹ hỏi, Mẹ bỏ cuộc chơi Đoạn 2: Mẹ trong lòng người đi *Đoạn 3 gồm 2 bài: Mẹ trả lời, Mẹ hóa đá
Phần này lấy hình ảnh của núi để nói về sự chờ đợi của mẹ khi chờ đợi chồng về, chờ đợi một cái gì đó tốt đẹp sẽ quay trở lại sau cơn binh lửa dằng dai. Mấy câu lục bát biến thể mở đầu khắc hoạ nỗi đau của mẹ khi chiến cuộc xảy ra, chồng phải đi lính:
:Lính vua! Lính chúa! Lính làng! :Trời ơi! Giết bao nhiêu giặc :Cho chàng, chàng phải đi?
Núi mẹ mang nhiều hình ảnh nói lên cảm xúc và tâm trạng người chinh phụ, lấy 4 mùa của năm ra để lột tả dòng tâm trạng biến đổi của mẹ:
Mùa xuân và mùa hạ (trong bài 1):
:Gió mùa Xuân, Mẹ bâng khuâng hỏi: :Hoa trên đồi, hoa trên đồi sớm tối còn tươi :Giữa ngày xuân mới, giữa hội mùa vui :Sao vắng tiếng cười? :Sao vắng bóng người?
:Gió hè qua, Mẹ ra con hỏi :Khi trên đồi, khi trên đồi nắng quái chiều hôm
Mùa thu và mùa đông (trong bài 3):
:Gió mùa Thu, Mẹ ru con ngủ :Con vẫn chờ bóng cũ người xưa :Bốn nghìn năm qua, bóng về rồi đi :Bóng ngã chiến trường làm phân bón cánh đồng
:Gió mùa Đông, Mẹ không thấy mỏi :Đứng trông về, đứng trông về bốn cõi trời xa
Bốn đoạn này được viết trên nền làn điệu Ru con phổ biến ở Việt Nam. Trong đoạn mùa Thu có hình ảnh đứa con và chiếc bóng đi về, gợi nên câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Riêng đoạn 2 nói lên tấm lòng người ra đi, những lời dặn dò, nguyện ước của họ với người ở lại và những khó khăn người đó gặp phải trên con đường cứu quốc, cứu quốc ở đây cũng là cứu đất Mẹ, cứu mẹ Việt Nam. Trong bài mang nhiều tên núi nổi tiếng của tổ quốc Việt Nam như Thất Sơn, núi Lam...
Câu cuối cùng của phân khúc này, qua bao sóng gió và hy sinh gian khổ, mẹ lại trở lại là người mẹ bình dị, lo lắng trước hết cho gia đình, mặc cho chàng mang những hoài bão lớn lao, mẹ chỉ mong chàng giữ thân để nàng lấy đó làm gương dạy con, như ước mơ bình dị của những phụ nữ: :Giữ dân! Giữ nước! Giữ làng! :Chàng ơi, giữ thân cho Mẹ! :Cho nàng dạy con.
Sông mẹ
Phần Sông mẹ gồm 4 đoạn, chia ra làm 5 bài: Đoạn 1 gồm 2 bài: Muốn về quê mẹ, Sông còn mải mê Đoạn 2: Sông vùi chôn mẹ Đoạn 3: Sông không đường về Đoạn 4: Những dòng sông chia rẽ
Mở đầu của phần này là câu ca dao được ngắt ra, ẩn dụ sự chia cắt trên dòng sông đất nước:
:Chiều chiều ra đứng bờ sông :Muốn về quê Mẹ :Muốn về quê Mẹ :Mà không có đò!
Sau đó là những ngổn ngang, bất ổn trên những dòng sông đất nước, mà chúng ẩn dụ cho những đứa con của mẹ Việt Nam, cũng như tình hình đất nước vào thời kỳ đó: :Sông Hồng cuộn sóng lôi cuốn Sông Lô :Sông Đà, Sông Đuống trôi xuống Sông Cầu :Nghe Bạch Đằng Giang chôn bao nhiêu xác quân Tàu :Sông nào cũng muốn đến trước tranh lấy công đầu
Vì còn mải mê giành giật như vậy nên sông không cùng nhau chảy về quê Mẹ được. Phần bài hát này mang tính thời cuộc cao.
Xuân Vũ khi viết về phần này cũng nói: "Trong phần III của Trường Ca, phần Sông mẹ, Phạm Duy đã nói lên được nỗi bi đát, niềm đau thương của dân tộc ta sau những lúc vinh quang. Có những con sông lịch sử với chiến công oanh liệt như Bạch Đằng Giang thì cũng có những con sông ô nhục như sông Gianh, Bến Hải. Và có những con sông nhuộm màu chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ, tranh giành lẫn nhau
Nhà nghiên cứu Georges Gauthier, tác giả cuốn "Một người Gia Nã Đại và âm nhạc Phạm Duy", sau khi nghe trường ca đã có nhiều khen ngợi. Theo Gauthier, hiếm khi trong tác phẩm của Phạm Duy mà kỹ thuật và súc cảm, lý trí và tình cảm lại hòa hợp với nhau trong một vẻ vĩ đại và toàn hảo vững vàng được như trong bản Mẹ Việt Nam. Gauthier gọi cái đẹp của bản liên-hợp-phổ ấy là cái đẹp cổ điển, một cái đẹp phổ quát, và đoán chừng chỉ có bản trường ca tiếp theo mới có thể so sánh được..
Bắt đầu với cung Cm trong đoạn "Mẹ ta", "Mẹ xinh đẹp", Phạm Duy đã đưa giai điệu qua nhiều cung bậc khác nhau: "Lúa mẹ" bắt đầu bằng cung Emb và kết thúc bằng Cm, sang phần "Sông vùi chôn mẹ" chuyển sang cung Bb. Đến "Dòng sông chia rẽ", giai điệu biến đổi lần lượt, bắt đầu ở cung Bmb, rồi qua Dmb, Fm, Bmb, Emb và Gb. Phần "Biển mẹ" bắt đầu một cách tươi tắn bằng cung Eb trong Mẹ trùng dương, dần chuyển sang đoạn kết ở cung Ab.
Trong trường ca, Phạm Duy đã sử dụng một số điệu lý, điệu hát ru, điệu hò... quen thuộc trong dân gian, đa phần nằm ở chỗ tiếp nối các đoạn nhạc.
Phổ biến
Trường ca Mẹ Việt Nam từng được phổ biến rộng khắp miền Nam Việt Nam từ khi nó ra đời cho đến khi miền Nam sụp đổ. Những ca sĩ hát nó thường hát theo từng phần, trong đó những bài "Mẹ trùng dương", "Mẹ xinh đẹp", "Việt Nam, Việt Nam" được thể hiện qua nhiều giọng ca sĩ. Riêng chung khúc "Việt Nam, Việt Nam" đã trở nên rất nổi tiếng và có thời được đưa ra ứng cử làm bài quốc ca của Việt Nam Cộng hòa.
Cũng như những ca khúc khác của Phạm Duy, trường ca bị cấm trên toàn Việt Nam từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Đến nay, dù nhiều ca khúc của Phạm Duy đã được hát lại, thì toàn bộ trường ca Mẹ Việt Nam vẫn chưa được phép phổ biến ở Việt Nam.
Thu âm
Trường ca Mẹ Việt Nam từng được thu âm vào năm 1965 tại đài phát thanh Sài Gòn bởi ban ca Hoa Xuân, gồm 2 giọng chính đảm nhận đơn ca, lĩnh xướng là Thái Thanh, Duy Khánh, cùng với nhóm hợp ca: Thái Hằng, Kim Tước, Nhật Trường và Trần Ngọc. Phần hòa âm được đảm nhận bởi Nghiêm Phú Phi, Y Vân và Đan Thọ. Phạm Duy chỉ đạo nghệ thuật.
Nói về nhạc phẩm
Phạm Duy:
Xuân Vũ:
Trần Văn Ân:
Georges Etienne Gauthier:
