[[Tập tin:Heckscher-Ohlin 4.svg|thumb|Có hai quốc gia A và B với các yếu tố sản xuất khác nhau. Trước khi có thương mại, Nước A sản xuất tiêu dùng tại điểm còn nước B tại
. Đây là hai điểm cùng nằm trên đường bàng quan cao nhất mà hai quốc gia đạt được và là tiếp điểm giữa đường bàng quan này và đường giới hạn khả năng sản xuất của hai nước. Độ dốc của đường tiếp tuyến chung đi qua hai điểm chỉ qua mức giá tương đối giữa G
1 và G
2 trong điều kiện tự cung tự cấp. Rõ ràng, tiếp tuyến đi qua
có độ dốc nhỏ hơn của tiếp tuyến đi qua
nên G
1 ở nước A rẻ hơn một cách tương đối so với nước B. Do đó nước B có lợi thế so sánh về sản phẩm G
1 và ngược lại.
Khi tự do thương mại diễn ra, giá G1 ở nước A sẽ tăng lên và giảm xuống ở nước B, ngược lại giá G2 ở nước B sẽ tăng lên và giảm xuống ở nước A. Quá trình chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi được tiếp tục cho đến khi nước B đạt đến điểm sản xuất mới là
còn nước A tới
, tại đó mức giá tương đối giữa G
1 và G
2 ở hai nước là cân bằng.]]
**Lý thuyết Heckscher – Ohlin** là một trong bốn lý thuyết quan trọng của mô hình Heckscher – Ohlin, được phát triển bởi nhà kinh tế Thụy Điển Eli Heckscher và Bertil Ohlin (học trò của ông). Trong trường hợp hai yếu tố sản xuất (vốn và lao động), lý thuyết nêu rõ: "Một quốc gia nhiều vốn sẽ xuất khẩu hàng hóa thâm dụng vốn, trong khi quốc gia dồi dào lao động sẽ xuất khẩu hàng hóa thâm dụng lao động."
Giả định quan trọng của mô hình Heckscher – Ohlin là hai quốc gia giống hệt nhau, ngoại trừ sự khác biệt về nguồn tài nguyên. Sự dồi dào tương đối về vốn sẽ làm cho quốc gia có nhiều vốn sản xuất ra hàng hóa thâm dụng vốn rẻ hơn so với quốc gia có nhiều lao động và ngược lại.
Ban đầu, khi các quốc gia không giao dịch:
- Giá của hàng hóa thâm dụng vốn ở nước có nhiều vốn sẽ được đặt giá thấp hơn so với giá hàng hóa ở nước kia,
- Giá của hàng hóa thâm dụng lao động ở quốc gia có nhiều lao động sẽ được đặt giá thấp hơn so với giá của hàng hóa ở quốc gia kia.
Một khi thương mại được cho phép, các công ty tìm kiếm lợi nhuận sẽ chuyển sản phẩm của họ sang các thị trường có giá cao hơn (tạm thời). Kết quả là:
- Quốc gia có nhiều vốn sẽ xuất khẩu hàng hóa thâm dụng vốn,
- Nước có nhiều lao động sẽ xuất khẩu hàng hóa cần nhiều lao động.
Nghịch lý Leontief, do Wassily Leontief trình bày năm 1951, chỉ ra rằng Hoa Kỳ (quốc gia có nhiều vốn nhất trên thế giới theo bất kỳ tiêu chí nào) đã xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng lao động và nhập khẩu các mặt hàng thâm dụng vốn, mâu thuẫn rõ ràng với lý thuyết Heckscher –Ohlin. Tuy nhiên, nếu tách lao động thành hai yếu tố riêng biệt, lao động có kỹ năng và lao động không có kỹ năng thì lý thuyết Heckscher – Ohlin chính xác hơn. Hoa Kỳ có xu hướng xuất khẩu hàng hóa sử dụng nhiều lao động có kỹ năng và có xu hướng nhập khẩu hàng hóa thâm dụng lao động phổ thông.
👁️
63 | ⌚2025-09-16 22:46:52.665

[[Tập tin:Heckscher-Ohlin 4.svg|thumb|Có hai quốc gia A và B với các yếu tố sản xuất khác nhau. Trước khi có thương mại, Nước A sản xuất tiêu dùng tại điểm còn nước B tại
**Lý thuyết về vòng đời sản phẩm** là một lý thuyết kinh tế được phát triển bởi Raymond Vernon nhằm đáp lại sự thất bại của mô hình Heckscher-Ohlin trong việc giải thích bản mẫu
**Mô hình Heckscher-Ohlin**, nhiều khi được gọi tắt là **Mô hình H-O**, là một mô hình toán cân bằng tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế
**Bertil Gotthard Ohlin** () (23 tháng 4 năm 1899 – 3 tháng 8 năm 1979) là một nhà chính trị và kinh tế học người Thụy Điển. Ông là giáo sư kinh tế tại trường
**Mô hình đàn nhạn bay** là thuật ngữ chỉ một đặc trưng phát triển công nghiệp thường thấy ở các nước Đông Á. Về mặt từ nguyên, Akamatsu Kaname (赤松要) - một học giả kinh
thumb|220x124px | right | Nhập khẩu của các quốc gia trên thế giới 2006 **Thương mại quốc tế** (Tiếng Anh: _international trade/international commerce_) là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu
**Paul Anthony Samuelson** (15 tháng 5 năm 1915 – 13 tháng 12 năm 2009) là một nhà kinh tế học người Mỹ, đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp và
Công ty phát hành: Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Văn hóa Hà Nội Tác Giả:TS. Cấn THị Thu Hương - TS. Trần Thị Thanh Huyền NSX - NXB: Lao động Ngôn Ngữ:
Trong thế giới ngày nay, các quốc gia không còn hoạt động kinh tế một cách độc lập và cô lập mà trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế phức tạp và đa dạng. Sự phụ thuộc này được thể hiện qua nhiều khía cạnh như thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài, cùng với sự di chuyển lao động và các mối liên kết chặt chẽ về tài chính và công nghệ. Sự phụ thuộc lẫn nhau đó khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu kinh tế học quốc tế. Nếu như kinh tế học tập trung nghiên cứu những vấn đề của nền kinh tế đóng thì kinh tế học quốc tế nghiên cứu những vấn đề của hai hay nhiều nền kinh tế, liên quan đến việc sử dụng các nguồn lực khan hiểm giữa các quốc gia để sản xuất và phân phối hàng hóa ra thị trường quốc tế. Kinh tế học quốc tế tập trung vào ba trụ cột chính, bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và tài chính quốc tế. Nhằm góp phần giúp cho sinh viên dễ dàng tiếp cận, nghiên cứu môn học, tập thê tác giả - giảng viên Khoa Kinh tê, Học viện Ngân hàng - tiền hành biên soạn cuốn giáo trình Kinh tế Quốc tế. Cuốn giáo trình này được thiết kế thành 11 chương như sau: Chương1: Tổng quan về kinh tế quốc tế Chương 2: Năng suất lao động và quy luật lợi thế so sánh Chương 3: Mô hình yếu tố sản xuất chuyên biệt Chương 4: Lý thuyết thương mại HECKSCHER - OHLIN Chương 5: Lý thuyết chuẩn về thương mại quốc tế Chương 6: Lý thuyết lợi thế nhờ quy mô Chương 7: Chính sách thương mại quốc tế Chương 8: Liên kết kinh tế quốc tế Chương 9: Di chuyển quốc tế các yếu tố sản xuất Chương 10: Những vấn đề cơ bản tài chính quốc tế Chương 11: Chính sách kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở Mời các bạn đón đọc!
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học