✨Leopard 1
Leopard 1 là một loại xe tăng chiến đấu chủ lực được thiết kế và sản xuất tại Đức và lần đầu tiên đi vào phục vụ vào năm 1965. Việc thiết kế bắt đầu bằng một dự án hợp tác giữa Đức và Pháp vào những năm 1950, nhưng các quan hệ đối tác đã kết thúc và thiết kế cuối cùng được đặt hàng bởi Bundeswehr, sản xuất bắt đầu vào năm 1965. Trong tổng số 6.485 xe tăng Leopard đã được xuất xưởng, có 4.744 xe tăng chiến đấu và 1.741 phiên bản xe cứu thương bọc thép, pháo phòng không, xe chiến đấu bộ binh,... sử dụng khung gầm của Leopard 1.
Leopard nhanh chóng trở thành một mẫu tăng tiêu chuẩn của một số lực lượng vũ trang Tây Âu và nó là xe tăng chiến đấu chủ lực tại hơn một chục quốc gia trên toàn thế giới. Từ năm 1990, Leopard 1 dần dần được thay thế bằng các loại tăng khác hiện đại hơn. Trong quân đội Cộng hòa Liên bang Đức, Leopard 1 đã chính thức ngừng hoạt động trong biên chế các lực lượng tăng - thiết giáp vào năm 2003 và nó được thay thế bởi loại tăng Leopard 2 - chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực được đánh giá là một trong những loại xe tăng hiện đại bậc nhất trên thế giới hiện nay.
Thông số
- Loại: Xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT)
- Nước sản xuất: ,
- Nặng: 42 tấn
- Dài: 9,54 m
- Rộng: 3,37 m
- Cao: 2,76 m
- Tổ lái: 4 người
- Vũ khí phụ: 2 súng máy đồng trục 7,62 mm
- Vũ khí chính: Pháo 105 mm L7 nòng rãnh xoắn
- Động cơ: MB838 CaM 500, dùng dầu diesel, 830 mã lực
- Tốc độ: 60 km/h
- Tầm hoạt động: 600 km
- Vượt dốc: 1,15 m (3,8 ft)
Lịch sử phát triển
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các cơ sở công nghiệp của Đức bị tàn phá nặng nề, các nhà khoa học, kỹ sư lành nghề hoặc đã chết hoặc được Liên Xô – Hoa Kỳ thâu tóm. Ngoài ra, những biến động chính trị khiến nước Đức bị chia làm đôi cũng khiến cho nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh một thời của Đức không có cơ hội phát triển. Năm 1955, mười năm sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Cộng hoà Liên bang Đức (Tây Đức) bắt đầu tái thành lập quân đội và được mời gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Trong thành phần lực lượng xe tăng Tây Đức lúc bấy giờ bao gồm chủ yếu các xe tăng do Mỹ sản xuất, trong số đó, nổi bật nhất là M48 Patton. Tuy nhiên, ngay sau khi gia nhập NATO, Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức đã quyết định bắt tay thiết kế loại xe tăng cho riêng mình, vì theo đánh giá, các xe tăng Mỹ đã thể hiện độ hiệu quả kém trên các địa bàn hoạt động quân sự tại châu Âu.
Leopard 1 được thiết kế dựa trên các kinh nghiệm cơ bản, được đúc kết, tích lũy trong quá trình khai thác vận hành và sửa chữa những xe tăng M48 Patton và Centurion, những xe tăng được bố trí tại các cơ sở quân sự tại Tây Đức. Năm 1957, tại Đức và Pháp, và sau đó là Ý, một thoả thuận hợp tác trong việc thiết kế và xây dựng xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) mới đã được chính phủ ba nước thông qua.
Hai đội thiết kế đã được thành lập tại Đức và một đội tại Pháp. Mẫu đầu tiên, do hai đội thiết kế từ Đức, đã sẵn sàng cho thử nghiệm năm 1960. Từ việc học tập các kinh nghiệm trong chiến tranh của nước Đức và của nước ngoài, Đức đã thiết kế và sản xuất mẫu xe tăng thử nghiệm đầu tiên vào năm 1961. Ước tính đã có tới 80 mẫu thử nghiệm đã được chế tạo trong suốt giai đoạn phát triển Leopard 1. Đến năm 1962, chính phủ Đức nhận thấy mẫu Standardpanzer phù hợp với các yêu cầu của mình nên đã đưa vào sản xuất.
Mô tả
Leopard 1 là một trong những xe tăng tiêu biểu trong thập 1960. Nó có pháo chính 105mm và giáp mỏng hơn so với xe tăng của Liên Xô. Leopard 1 có thiết kế truyền thống với hai ngăn, động cơ chứa trong ngăn chống cháy phía sau, và kíp lái được bố trí phía trước. Tháp pháo được đúc nguyên khối. Chỉ huy và pháo thủ ở phía bên phải tháp pháo. Người nạp đạn được bố trí bên trái, sẽ lắp đạn vào khóa nòng của pháo, sau mỗi lần bắn sẽ đẩy lùi về để đẩy vỏ đạn ra. Lái xe ở phía trước tháp pháo, về phía bên tay phải.
Giáp trụ và hệ thống bảo vệ
Dự kiến ban đầu, xe tăng được sản xuất hàng loạt có trang bị hỏa lực mạnh và độ cơ động cao. Nhưng vào thời điểm đó, Cộng hòa Liên Bang Đức chưa có các động cơ đủ sức mạnh dành cho xe tăng nặng hơn 40 tấn, vì thế, giáp của xe tăng được làm khá mỏng để xe nhẹ bớt. Nơi dày nhất là giáp trước thân xe cũng không quá 70mm đặt nghiêng 60 độ. Khả năng chống đạn của Leopard 1 được tăng lên bởi góc nghiêng hợp lý của các tấm giáp cùng với tháp pháo bo tròn được làm từ thép đúc. Leopard 1 mang giáp dày tối đa 70mm và tối thiểu là 8mm trên thân. Tháp pháo dày 50mm ở mặt trước và 60mm ở phía sau và bên trên. Phía trước tháp tháo còn bố trí thêm lớp giáp bảo vệ dày 60mm. Xe được trang bị diềm chắn thân xe, được trang bị hệ thống vượt chướng ngại vật dưới nước và các mắt xích được lắp thêm các tấm cao su và được trang bị hệ thống lọc bụi. Xe có thể tự đóng kín và điều áp trong điều kiện chiến tranh sinh học và hóa học (NBC).
Nhìn chung giáp của Leopard 1 là khá mỏng, kể cả theo tiêu chuẩn của thập niên 1960. Nó không thể chịu được đạn xuyên giáp của các pháo nòng dài cỡ 85mm trở lên. Thử nghiệm cho thấy pháo 115mm trên T-62 có thể xuyên thủng giáp trước của Leopard 1 từ cự ly tới 1.800 mét bằng đạn xuyên giáp động năng chế tạo trong thập niên 1960.
Hỏa lực
Trong tháp pháo bố trí chỗ ngồi của trưởng xe, pháo thủ và nạp đạn viên. Vị trí của pháo thủ trang bị máy đo xa lập thể và thước ngắm viễn vọng, còn chỉ huy được trang bị máy ngắm toàn cảnh. Leopard 1 được lắp pháo 105mm nòng xoắn của Anh có thể khai hoả với tốc độ đạn 1400 m/s. Pháo có trang bị hệ thống ngắm thủy lực chạy điện và các thiết bị hút khói. Nó được trang bị hai súng máy 7,62mm, một đồng trục và một dùng làm vũ khí phòng không xoay quanh tháp pháo. Súng máy đồng trục ban đầu được thiết kế đồng bộ với súng chính, sau được thay thế bằng hệ thống ngắm bắn quang học. Xe còn được trang bị hệ thống cân bằng ngang và dọc cho pháo chính, hệ thống giữ ấm cho nòng pháo, hệ thống nhìn đêm dành cho pháo thủ và trưởng xe. Trên vị trí nạp đạn được bố trí hệ thống kính ngắm tiềm vọng có khả năng quan sát 360 độ. Có máy ngắm đo xa laser cho pháo thủ được thiết kế chìm, tổ hợp máy ngắm tiềm vọng để quan sát trong tình trạng ngày - đêm cho chỉ huy xe và hệ thống tính toán đường đạn điện tử.
Leopard 1A6
Phiên bản Leopard 1A1 được nâng cấp giáp bảo vệ và được bị trọng pháo nòng trơn 120 mm Rheinmetall L55 của Leopard 2.
- —2.437 chiếc với nhiều phiên bản khác nhau.
- — 520 Leopard 1A5; 95 Leopard 1A3 và 128 Leopard 1V.
- —720 (600 A2, 120 A5) được ngừng hoạt động vào năm 2008.
- —Hãng thông tấn Markaziya dẫn lời một quan chức trong Bộ Quốc phòng Liban cho biết, Đức sẽ chuyển cho Liban 50 chiếc xe tăng Leopard 1A5.
- —468 Leopard 1A5.
- —172
- —337
- —4 xe tăng Leopard 1A5 được chuyển đổi thành xe thiết giáp phục hồi Hippo BARV.
Australia
Xe tăng Leopard 1 phục vụ lần đầu tiên trong biên chế của Quân đội Úc vào năm 1976, quân đội nước này cần một loại tăng mới để thay thế cho các chiếc tăng Centurion đã cũ của Anh (xe tăng Centurion phục vụ trong biên chế Lục quân Úc từ năm 1952).
Vào tháng 3 năm 2004, Chính phủ Úc quyết định thay thế cho Leopard 1 bằng M1A1 Abrams .
59 xe tăng M1A1 Abrams đã được chuyển giao vào tháng 9 năm 2006. Đồng thời, Hercules M88A2 cũng được trang bị để thay thế cho các loại xe kỹ thuật được thiết kế dựa trên khung gầm của Leopard 1 vốn đã cũ kỹ, lạc hậu.
Các chiếc tăng Leopard 1 cuối cùng được vận hành bởi Trung đoàn thiết giáp số 1. Vào tháng 7 năm 2007, Bộ quốc phòng Úc chính thức ra quyết định ngừng hoạt động loại tăng Leopard 1 trong biên chế Lục quân Úc
