✨Làng Hới
Làng Hới (tên chính thức Hải Triều, tên cũ Hải Hồ, Hải Thị, đôi khi được gọi là làng chiếu Tân Lễ) là một làng nghề truyền thống dệt chiếu cói nằm ở Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình, Việt Nam. Với vị trí nằm gần ngã ba sông nhiều bãi bồi dễ tiếp cận nguồn cói và đay, nghề dệt chiếu làng Hới xuất hiện sớm nhất vào thời Tiền Lê–Lý, sau phát triển mạnh từ thời trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457–1531, nhà Hậu Lê) và trở thành một trong các làng dệt chiếu có tên tuổi nhất ở đồng bằng sông Hồng.
Lịch sử
Là một làng cổ có lịch sử hình thành từ lâu đời, ít nhất là từ thời Tiền Lê, làng Hới đã trải qua nhiều giai đoạn hành chính khác nhau:
- Từ thời Lê sơ, làng thuộc huyện Ngự Thiên, phủ Tân Hưng (sau đổi thành "Tiên Hưng" vì kỵ húy vua Lê Kính Tông).
- Thời Nguyễn mạt–Pháp thuộc, làng thuộc xã Hải An, tổng Tang Giá (huyện cũ Quỳnh Côi).
- Hiện nay, làng là một phần của thôn thôn Hải Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Chữ Hới và chữ Hải trong tiếng Hán đều dùng cùng một chữ 海 khi viết, nên đa số các tên khác của làng Hới đều có chữ Hải: Hải Hồ, Hải Thị và hiện tại là Hải Triều.
Làng Hới nằm ở vị trí gần ngã ba sông, nơi sông Hồng có chi lưu là sông Luộc. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì gọi là sông Nông Kỳ, một trong ba kỳ quan của trấn Sơn Nam thời xưa. thumb|phải|Bản đồ tỉnh Thái Bình năm 1909, làng Hới nằm kế cận khu vực Thanh Triều, huyện Hưng Nhân (xa nhất hướng bên trái bản đồ). Về sau, khu vực huyện Hưng Nhân xung quanh làng Hới đã trở thành một vùng dệt chiếu đông đúc có lên tới 20 làng chuyên dệt chiếu. Sách Đại Nam nhất thống chí của nhà Nguyễn có ghi nhận rằng "Chiếu trơn xã Thanh Triều, Hải Triều (làng Hới) huyện Hưng Nhân sản xuất tốt hơn cả", và ở thế kỷ 18 thương gia nhà Thanh (Trung Quốc) đã qua vùng chiếu làng Hới thu gom chiếu rất nhiều. Tuy thời kỳ này nhiều làng cùng làm chiếu, nhưng làng Hới vẫn có tiếng nhất trong khu vực sản xuất chiếu ở Thái Bình. thumb|left|Cảnh phơi chiếu tại một xưởng làm chiếu ở làng Hới (làng Hải Triều), Thái Bình thập niên 1920.
Từ 1986–1990, theo chính sách kinh tế chung thay đổi ở thời kỳ Đổi Mới, nghề chiếu ở làng Hới đã được tái thiết lập và đã trở nên phát triển và mở rộng hơn so với trước đây. Từ thời gian này, không những làng Hới, mà cả các làng khác trong xã Tân Lễ cũng đã trở nên thịnh vượng hơn nhờ vào nghề dệt chiếu. Đến năm 2023, số hộ làm chiếu trong cả xã Tân Lễ là 29 hộ với 90 máy dệt chiếu cói, thu hút 420 lao động, 8 cơ sở dệt chiếu nylon với 310 máy, tạo việc làm cho trên 1000 người trong xã và từ địa phương khác đến.
Nghề dệt chiếu làng Hới
Làng Hới có nghề dệt chiếu ở làng Hới nổi tiếng đã đi vào văn học dân gian với các câu vè:
_Chiếu Hới, vải Bơn, lụa Mẹo._
_Ăn cơm Hom. _ _Nằm giường Hòm._ _Đắp chiếu Hới._### Sơ lược phát triển thumb|phải|Hình ảnh về phương pháp dệt chiếu nằm thủ công với hai người dệt, trước bàn dệt là ngựa gỗ đỡ sợi cói. Với vị trí thuận lợi trồng nguyên liệu và giao thương, người dân nơi đây đã sớm học được nghề dệt chiếu và phát triển thành làng nghề truyền thống, thuyết nói là từ thời Tiền Lê–Lý. Tuy nhiên, ban đầu làng chỉ dệt chiếu bằng phương pháp thủ công dệt bàn dệt đứng, không có ngựa đỡ sợi, cách dệt đơn giản nên sản phẩm không được đẹp và bền.
Bước ngoặt quan trọng đưa nghề dệt chiếu Hới lên một tầm cao mới là vào thế kỷ 15 khi Phạm Đôn Lễ, người làng Hới, đỗ khoa thi trạng nguyên năm 1481 thời vua Lê Thánh Tông, sau được cử đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Tại Ngọc Hà, châu Quế Lâm, Quảng Tây; ông Lễ đã tiếp thu và học hỏi thêm những kỹ thuật dệt chiếu nằm tiên tiến hơn. Sau khi về nước, Phạm Đôn Lễ đã tích cực chia sẻ, truyền dạy và cải tạo quy trình dệt chiếu dân chiếu làng Hới: từ kỹ thuật dệt đứng, làng chuyển sang kỹ thuật dệt nằm, có ngựa đỡ sợi.
Từ thời kỳ này, kỹ thuật dệt chiếu của người dân Hới có bước tiến triển lớn. Sản phẩm chiếu ra đời từ đây đẹp và bền hơn rất nhiều, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng và ngày càng được ưa chuộng. Nghề dệt chiếu truyền thống của làng Hới từ đó có dịp phát triển mạnh mẽ, làm nên tên tuổi và trở thành một trong những mặt hàng thủ công chuộng dùng trong nhiều lĩnh vực từ sinh hoạt bình thường đến cung đình, lễ hội trong cả nước cho đến ngày nay. Hiện tại do nhiều khu vực truyền thống trồng cói đã không còn, cói dùng trong hoạt động sản xuất đang được thu gom từ những vùng xa hơn như là miền Nam Việt Nam. Kỹ thuật se sợi đay và cói của làng Hới được đánh giá rất cao, ít có nơi nào khác có thể theo kịp về chất lượng. Ngoài ra, các nghệ nhân dệt chiếu nhiều kinh nghiệm nhất thường có thể dệt ra nhiều mẫu hoa văn khác nhau, từ hoa, chữ thọ, chữ lồng đến các họa tiết và hình thù phức tạp khác.
Chiếu làng Hới nổi tiếng lúc mới mua sợi mịn trắng ngà, dễ nhìn, hương thơm từ cây cói cùng với kỹ thuật làm biên chiếu riêng biệt so với các làng khác và ngoài để nằm, ngồi còn có thể dùng đắp giữ ấm được. Khi sử dụng trong thời gian dài, chiếu chuyển sang màu vàng, độ mềm mại tốt, dễ làm sạch, thoáng đãng, nước thoát nhanh, khô nhanh.
Việc mua chiếu Hới ở chợ đã trở thành một nét văn hóa dân gian ở địa phương. Tiêu biểu là hội chiếu làng Hới diễn ra định lệ ngày mồng 6 (ngày này được cho là ngày mất của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ) đến mùng 9 tháng giêng âm lịch. Dịp này, làng tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động, trong đó quan trọng có lễ tế Tổ nghề và có cuộc thi dệt chiếu giữa các giáp trong sân đình. Giải thưởng không chỉ là điềm may đầu năm mà còn là tiếng tăm về tài nghệ của từng phường, ảnh hưởng đến uy tín làm nghề.
- Phạm Đôn Lễ (1457–1531), trạng nguyên đỗ đầu tam khoa triều vua Lê Thánh Tông, làm chức quan đến chức thượng thư có công lớn trong triều đình và giúp dân làng phát triển nghề dệt chiếu. Danh gọi Tam Nguyên Đôn Lễ hay Trạng Chiếu.
Di sản
Thống kê đầu thập niên 1930, làng có hai đình, một miếu và một chùa.
- Miếu thờ bà Nguyễn Thị Lộ, đối diện với đình làng.
