✨Kitsune
thumb|Hoàng tử Hanzoku bị một con cáo chín đuôi (cửu vĩ hồ, kyūbi no kitsune) làm khiếp sợ. Tranh in của [[Utagawa Kuniyoshi, thời kỳ Edo, thế kỷ 19.]] right|thumb|Một con cửu vĩ hồ, từ bản in đời nhà Thanh của cuốn cổ kinh [[Sơn Hải Kinh]] Trong văn hóa dân gian Nhật Bản, là những con cáo hay hồ ly tinh có năng lực siêu nhiên. Loài cáo là một chủ đề phổ biến của văn hoá dân gian Nhật Bản. Trong tiếng Anh, là từ dùng để chỉ chúng trong ngữ cảnh này. Những câu chuyện miêu tả chúng như những sinh vật vừa thông minh vừa có những ma lực ám ảnh tăng dần theo độ tuổi và trí tuệ của chúng. Theo văn hóa dân gian Yōkai, tất cả các con cáo đều có năng lực biến hóa thành hình dạng con người. Trong khi một số câu chuyện dân gian kể rằng sử dụng năng lực của chúng để lừa người – như những con cáo trong văn hóa dân gian vẫn thường làm – thì những câu chuyện khác lại miêu tả chúng như là những vệ sĩ trung thành, người bạn, người tình và người vợ.
Cáo và loài người đã sống cùng nhau trong thời tiền sử ở Nhật Bản; sự đồng hành đã làm nảy sinh những truyền thuyết về các sinh vật này. có liên hệ mật thiết với Inari, một kami hoặc thần linh trong Thần đạo, và phụng sự như là những sứ giả của vị thần. Vai trò này đã làm tăng ý nghĩa siêu nhiên của loài cáo. Một con có càng nhiều đuôi – chúng có thể có đến chín cái đuôi – thì nó càng già, càng thông thái, và càng mạnh. Bởi vì tiềm lực và sự ảnh hưởng của chúng, một số người còn cúng tế cho chúng như những vị thần. Ngược lại, những con cáo cũng thường được coi như là những "loài vật phù thủy", đặc biệt trong là thời kỳ Edo (1603–1867) đầy mê tín, và là những con yêu tinh lọc lừa (tương tự như với lửng và mèo).
Nguồn gốc
Những huyền thoại Nhật Bản về loài cáo có nguồn gốc từ cửu vĩ hồ trong thần thoại Trung Hoa, cũng có trong các câu chuyện khắp Đông Á. Những chuyện cổ dân gian của Trung Quốc kể về những thần cáo gọi là hồ ly tinh () có thể có tới chín đuôi; chúng đã được đưa vào văn hóa Nhật Bản với tên gọi ('cửu vĩ hồ', được trình bày chi tiết hơn bên dưới). Nhiều câu chuyện còn sót lại sớm nhất được ghi lại trong , một tuyển tập văn học Nhật Bản từ thế kỷ 11 các câu chuyện truyền miệng của Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ.
Smyers (1999) ghi nhận rằng ý tưởng về loài cáo chuyên đi quyến rũ và mối liên hệ của những huyền thoại về chúng với Phật giáo đã được đưa vào văn hóa dân gian Nhật Bản thông qua những câu chuyện tương tự của Trung Quốc, nhưng bà vẫn tin rằng một số câu chuyện về loài cáo có chứa những chất liệu đặc trưng riêng của Nhật Bản.
Từ nguyên
nhỏ|phải|Tượng cáo trong ngôi đền Thần Đạo ở Nhật Bản thumb|phải|Nhật Bản là nơi sinh sống của 2 [[phân loài cáo đỏ: cáo Hokkaido (Vulpes vulpes schrencki, hình), và cáo đỏ Nhật Bản (Vulpes vulpes japonica), cả hai đều không có chín đuôi.]] Người ta vẫn chưa biết từ nguyên đầy đủ của từ này. Cách sử dụng từ lâu đời nhất được biết đến là trong văn bản Shin'yaku Kegonkyō Ongi Shiki, có niên đại năm 794. Các nguồn cũ khác bao gồm Nihon Ryōiki (810–824) và Wamyō Ruijushō (k. 934). Những nguồn cũ này được viết bằng chữ Man'yōgana, trong đó xác định rõ dạng lịch sử của từ này (khi được chuyển âm sang dạng Latin) là . Sau một số thay đổi âm vị trong lịch sử, nó trở thành .
Nhiều đề xuất từ nguyên đã được đưa ra, mặc dù không có sự thống nhất chung:
Myōgoki (1268) cho rằng nó được gọi như vậy vì nó "luôn () có màu vàng ()".
Tác phẩm vào đầu thời kỳ Kamakura chỉ ra rằng nó có nghĩa là "
- Nozaki cũng gợi ý rằng từ này ban đầu là từ tượng thanh: đại diện cho tiếng kêu ăng ẳng của cáo và trở thành từ chung cho 'cáo'; biểu thị một dạng thức thân mật.
là từ tượng thanh cổ; trong tiếng Nhật hiện đại, tiếng sủa của cáo được phiên âm là hoặc .
Từ nguyên dân gian được biết đến rộng rãi của từ này liên quan đến việc đi ngủ và trở về nhà: trong tiếng Nhật cổ điển, có nghĩa là 'đến ngủ', và có nghĩa là 'luôn luôn đến'. Từ bản dịch của Hamel:
Các truyền thống địa phương bổ sung thêm các loại hình khác. Nói chung, số lượng đuôi nhiều hơn cho thấy một già hơn và mạnh mẽ hơn; trên thực tế, một số câu chuyện dân gian nói rằng một con cáo sẽ chỉ mọc thêm đuôi sau khi nó sống được 100 năm. (Trong môi trường hoang dã, tuổi thọ điển hình của cáo thật là từ một đến ba năm, mặc dù các cá thể có thể sống tới mười năm trong điều kiện nuôi nhốt.)
Một, năm, bảy và chín đuôi là những con số phổ biến nhất trong các câu chuyện dân gian. Những này có khả năng nhìn và nghe bất cứ điều gì xảy ra ở bất cứ đâu trên thế giới. Những câu chuyện khác ghi nhận chúng với trí tuệ vô hạn (toàn trí). Sau khi đạt đến 1.000 tuổi và có đuôi thứ chín, chuyển sang màu trắng hoặc vàng, thường hoá thành các hình dạng người phụ nữ xinh đẹp, cô gái trẻ, đàn ông đứng tuổi, và ít hơn là các chàng trai trẻ. Những hình dạng này không bị giới hạn bởi độ tuổi hoặc giới tính của con cáo, đặc biệt nổi tiếng với việc đóng giả phụ nữ xinh đẹp.
Niềm tin phổ biến ở Nhật Bản thời Trung cổ là bất kỳ phụ nữ nào bị bắt gặp một mình, đặc biệt là vào lúc chạng vạng hoặc ban đêm, đều có thể là một . Từ ('mặt cáo') dùng để chỉ những phụ nữ có khuôn mặt hẹp với đôi mắt gần nhau, lông mày mỏng và gò má cao. Theo truyền thống, cấu trúc khuôn mặt này được coi là hấp dẫn, và một số câu chuyện cho rằng nó giống những con cáo ở dạng người. Các biến thể trong chủ đề cho thấy giữ lại các đặc điểm khác của loài cáo, chẳng hạn như lớp phủ mịn của lông cáo, có bóng mang hình dạng cáo hoặc phản chiếu cho thấy hình dạng thật của nó.
Trong một số câu chuyện, kitsune vẫn giữ lại – và gặp khó khăn trong việc – che giấu đuôi của chúng khi chúng ở hình dạng con người. Muốn tìm ra đuôi cáo thì có lẽ lúc chúng say rượu hoặc bất cẩn là phương pháp phổ biến để thấy rõ bản chất thật sự của chúng. Một người đặc biệt sùng đạo có thể nhìn thấu được lớp ngụy trang của cáo chỉ bằng cách cảm nhận chúng. Kitsune cũng có thể bị lộ diện khi ở trong lốt con người bởi nỗi sợ hãi và căm hờn chó. Một số còn trở nên bối rối trước sự hiện diện của chó đến mức quay trở lại dạng cáo và bỏ chạy.
