✨Kim Tuyên Tông
Kim Tuyên Tông (chữ Hán: 金宣宗, 18 tháng 4 năm 1163 - 14 tháng 1 năm 1224), tên thật là Hoàn Nhan Ngô Đô Bổ (完顏吾睹補), Hoàn Nhan Tùng Gia (完颜從嘉), Hoàn Nhan Tuân (完颜珣), là hoàng đế thứ 8 của vương triều nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc.
Kim Tuyên Tông là cháu đích tôn của hoàng đế Kim Thế Tông song không được ở trên địa vị thừa kế do thân phận của người mẹ. Đến năm 1213, người chú của ông là Vệ Thiệu vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế bị sát hại, nên ông được đưa lên ngôi vua, tức là Kim Tuyên Tông.
Trong thời gian cai trị của mình, Tuyên Tông gặp phải sự uy hiếp mãnh mẽ từ người Mông Cổ ở phía bắc, đến năm 1215 ông rời bỏ Yến Kinh, dời đô về Biện Kinh, không bao lâu sau gần như toàn bộ Hà Bắc rơi vào tay người Mông, và Hà Nam cũng bị uy hiếp dữ dội. Để lấy lại uy thế, ông chủ trương tiến hành chiến tranh với triều Tống ở phía nam trong chiến dịch kéo dài 6 năm, song không thu được thành công mà còn khiến nước Kim suy yếu hơn trước. Năm 1223, ông qua đời ở tuổi 61, người con trai thứ ba là Hoàn Nhan Thủ Tự lên kế vị, tức là Kim Ai Tông.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Kim Tuyên Tông là con trai trưởng của thái tử Hoàn Nhan Doãn Cung, cháu đích tôn của Kim Thế Tông Hoàn Nhan Ung, mẹ ông là Chiêu hoa họ Lưu. Tuy là thân phận con trưởng nhưng ông không được quyền kế vị bởi theo quy định của người Nữ Chân, địa vị thừa kế chỉ dành cho con trai của người vợ chính.
Chiêu hoa Lưu thị hạ sinh Tuyên Tông vào ngày 18 tháng 4 năm 1163, tức ngày Quý Mùi năm thứ ba Đại Định thời Kim Thế Tông tại kinh thành Yến Kinh, tên khai sinh là Hoàn Nhan Ngô Đô Bổ. Thuở nhỏ ông được ông nội là Kim Thế Tông nuôi dưỡng ở trong cung. Năm sau, 1190, Hoàn Nhan Tuân được tiến phong Dực vương, năm 1205, bị đổi tên là Hoàn Nhan Tùng Gia. Năm 1208, ông đổi phong là Hình vương, liền sau đó lại đổi là Thăng vương. Hoàng thúc Vệ Thiệu vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế thừa cơ đoạt lấy ngôi vua. Lúc đó ở phía bắc có Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ nổi lên với binh lực hùng mạnh, xâm lăng nước Kim.
Trong các năm từ 1211 đến 1213, nước Kim liên tiếp thất bại trước quân Mông, trong đó nặng nề nhất là trận Dã Hồ Lĩnh, thiệt hại lên đến 450.000 quân. Đến đầu năm 1213, hơn 90 thành trì của Kim đã bị hạ, sau đó là liên tiếp các thất bại ở Cối Hà Bảo, Cư Dung quan, tình thế hết sức nguy cấp.
Giữa lúc đó nội bộ nước Kim phát sinh mâu thuẫn. Hữu phó soái Ngột Thạch Liệt Hồ Sa Hổ giết chết Hoàn Nhan Vĩnh Tế, sai Đồ Đan Minh đến Chương Đức nghênh đón Thăng vương Tuân. Ngày 22 tháng 9 năm 1213, Hoàn Nhan Tuân đến Trung Đô, tức vị hoàng đế, là Kim Tuyên Tông, phong Hồ Sa Hổ làm Thái sư, Trung thư lệnh, Trạch vương.
Sau đó ông quyết định đích thân đến khóc tang cho vua cũ Vĩnh Tế. Ông đổi niên hiệu là Trinh Hựu, phong con trai cả là Hoàn Nhan Thủ Trung làm Hoàng thái tử, các hoàng tử Thủ Thuần làm Bộc vương, Thủ Lễ làm Toại vương. Hồ Sa Hổ còn dâng sớ đòi phế Vĩnh Tế làm thứ nhân. Vua Tuyên Tông hội triều thần hơn 200 người đến bàn bạc, cuối cùng đành phải phế Vĩnh Tế làm Đông Hải quận hầu. Ông đổi tên mình thành Hoàn Nhan Tuân như cũ, và truy tôn mẹ là Lưu thị làm Hoàng thái hậu.
Dời đô và nghị hòa
Đầu năm 1214, quân Tây Hạ được Mông Cổ hậu thuẫn tấn công vào Hội châu nhưng bị đẩy lui được. Lúc bầy giờ quân Mông đã lần lượt triệt hạ Quan châu, Hà Gian, Thương châu. Tiến phong Đồ Đan Dật làm Hữu Thừa tướng, Hoàn Nhan Thừa Huy làm Đô nguyên soái Bình chương sự, Thuật Hổ Cao Kì làm Bình chương sự.
Trong mùa xuân năm 1214, quân Mông Cổ công đánh vào phủ Chương Đức, Hoài châu, nhanh chóng tiến sát Yến Kinh. Thiết Mộc Chân sai gửi thư cho nhà Kim, đòi cống nạp thì sẽ lui quân.
Tướng Kim là Minh An đến đầu hàng và dẫn đường cho người Mông Cổ vây đánh Trung Đô. Kim chủ thất kinh, vội hạ lệnh triệu thái tử Thủ Trung về kinh. Sau khi dời đô về nam, Tuyên Tông hạ chiếu lập Nguyên phi Vương thị làm hoàng hậu, truy tặng cố chủ Vĩnh Tế làm Vệ Thiệu vương. Lúc này Đồ Đan Dật lo buồn mà chết, Bộc Tán Đoan được lên thay làm Thừa tướng. Trong suốt mùa thu và mùa đông năm 1214, quân Mông Cổ chiếm Thuận châu, Cao châu, Cẩm châu, Ý châu. Đầu năm 1215, ở Liêu Tây, tướng giữ thành Bắc Kinh là Ngân Thanh Sơn bị bộ tướng là Hoàn Nhan Tích Liệt hạ sát. Dần Đáp Hổ lên thay, ra hàng Mông Cổ, phủ Hưng Trung và các châu quận Liêu Tây cũng lần lượt tan rã. Ở Biện Kinh, thái tử Thủ Trung qua đời, Tuyên Tông lập cháu nội là Hoàn Nhan Khanh làm thái tôn thừa kế ngôi báu.
Từ Yến Kinh, Hoàn Nhan Thừa Huy liên tục gửi thư cáo cấp. Tháng 3 ÂL, Tuyên Tông sai Tả giá quân Vĩnh Tích Tả đô giám Ô Khố Luân Khánh Thọ dẫn quân 39.000 cứu viện, Ngự sử trung thừa Lý Anh vận chuyển lương thảo. Lý Anh chuyển lương đến giữa đường, vì mải say khướt mà bị quân Mông Cổ tập kích giết chết. Không có lương thực, các đạo quân cứu viện lần lượt lui về.
Sau khi quân Mông Cổ đánh Kim, triều Tống đã không còn nộp thuế cho Kim nữa. Đến đó, Tuyên Tông cho người đến Tống đốc thúc khoản tiền thuế, triều Tống không theo. Đến năm 1217, Vương Thế An và Thuật Hổ Cao Kì cùng liên danh đề nghị phạt Tống. Vua Kim nghe theo, bèn lấy Vương Thế An làm Hoài Nam chiêu phủ sứ, cùng Ô Cổ Luân Khánh Thọ, Hoàn Nhan Tát Bố cùng dẫn quân vượt Hoài Hà đánh xuống phía nam. Nhưng quân Kim bị quân Tống dụ vào ổ mai phục và đánh bại, không lâu phải lui về.
Tướng Kim là Hoàn Nhan Trại Bất lại đưa quân đánh Tảo Dương một lần nữa nhưng quân Tống giữ vững thành trì. Tháng 10 ÂL năm 1217, Kim Tuyên Tông lại muốn đánh xuống phía nam, hạ chiếu cho Tư Đỉnh đem quân từ ba lộ Tần, Củng, Phượng Tường nam phạt, công đánh Tứ Xuyên, phá Thiên Thủy quân. Sang năm 1218, Người Kim tiếp tục phá Bạch Hoàn bảo, Hoàng Ngưu bảo và Tản quan nhưng sau đó bị quân Tống đánh lui.
Mùa hạ năm 1222, Tuyên Tông được tin Triệu Phương, An Bính bên Tống đã chết, sai Hoàn Nhan Ngoa và Thời Toàn đánh Tống, nhưng chưa vào được sâu đã bị quân Tống đuổi theo truy kích, nhiều quân Kim do chưa kịp vượt cầu phao bỏ chạy nên đều bị giết.
Gia đình
- Hậu phi Vương hoàng hậu Vương nguyên phi, mẹ đẻ của Kim Ai Tông Sử Lệ phi Bàng Chân phi, mẹ đẻ của Hoàn Nhan Thủ Thuần
- Con cái Trang Hiến thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự Kinh vương Hoàn Nhan Thủ Thuần Chí vương Hoàn Nhan Huyền Linh ** Ôn quốc công chúa
