✨Hồi quốc Sulu
Nhà nước Hồi giáo Sulu (Tausūg: Kasultanan sin Sūg, Jawi: کسلطانن سولو دار الإسلام (Kasultanan Sūg), , (Saltanat Sulik)), là một cựu quốc gia đã từng nằm tại phía nam của Philippines. Cũng như Nhà nước Hồi giáo Maguindanao, Nhà nước Hồi giáo Sulu là một trong số rất ít chính thể đã từng được thành lập trên lãnh thổ của Philippines (khi Ferdinand Magellan tới Philippines vào thế kỉ 16, nhiều tộc người sống trên lãnh thổ này còn sống trong tình trạng nguyên thủy). Khi mạnh nhất, Sulu chiếm hàng loạt hải đảo, phía đông giáp với bắc đảo Midanao, và từng cai trị phần lãnh thổ Bắc Borneo và cả quần đảo Palawan nữa.
Thành lập
Vào thập niên 1450, Shari'ful Hashem Syed Abu Bakr, một người Ả Rập sinh tại Johor, đã từ Malacca tới Sulu. Vào năm 1457, ông lập ra nước Sulu và, sau đó, tự đổi tên thành Paduka Maulana Mahasari Sharif Sultan Hashem Abu Bakr. Trước thời điềm này quãng vài chục năm, Nhà nước Hồi giáo Brunei cũng đã được thành lập.
Vào năm 1703 (có tài liệu ghi là 1658), phần đất Bắc Borneo (nay là bang Sabah của Malaysia) trở thành lãnh thổ của Sulu. Vua Brunei sau khi nhận được sự trợ giúp của Sulu để chống lại bạo loạn trong nước và cướp biển, đã tặng cho vua Sulu phần đất này. Tuy vậy, trong cùng năm đó, vua Sulu đem tặng đảo Palawan cho vua Quadarat (1619-1671) của Nhà nước Hồi giáo Maguindanao như một món quà dẫn cưới sau khi ông vua này kết hôn với con gái của vua Sulu và kết thành liên minh Sulu-Maguindanao. Tuy vậy, chỉ hai năm sau, vào năm 1705, vua Maguindanao là Bayan ul-Anwar Maruhom Batua (1702-1736) đã để mất Palawan vào tay người Tây Ban Nha.
Sự can thiệp của ngoại bang
thumb|Vua (Sultan) của Sulu và đoàn tùy tùng. Năm 1865, Claude Lee Moses, lãnh sự Hoa Kỳ tại Brunei, ký được hợp đồng thuê đất Bắc Borneo trong thời hạn 10 năm với Brunei. Tuy vậy, chính phủ thời hậu chiến của Mĩ không muốn đụng chạm nhiều tới các phần thuộc địa Á châu nên Moses đã nhượng lại quyền thuê đất này cho American Trading Company. Do vướng phải những khó khăn tài chính nên sau đó công ty này lại nhượng quyền thuê đất trên cho Nam tước Gustavus von Overbeck. Von Overbeck đã kiếm được một thỏa thuận gia hạn hợp đồng thuê đất thêm 10 năm nữa từ Temenggong của Brunei, và cũng kiếm được một thỏa thuận tương tự từ phía vua Sulu vào ngày 22 tháng 1 năm 1878.
Nhằm trang trải cho kế hoạch trên, von Overbeck tìm kiếm sự hậu thuẫn của anh em nhà Dent - làAlfred và Edward. Dẫu vậy, von Overbeck không thuyết phục nổi chính phủ về những mối lời nhìn thấy được từ dự án này. Kết quả là von Overbeck bỏ cuộc để lại cho Afred Dent quyền cai quản phần đất thuê được. Đó là vào thời điểm năm 1880.
Được sự hậu thuẫn của Sir Rutherford Alcock và Sir Henry Keppel, Đô đốc của Hải quân Hoàng gia Anh, vào tháng 7 năm 1881, anh em nhà Dent lập ra British North Borneo Provisional Association Ltd. Cũng như giấy nhượng đất chính thức của Hoàng gia vào ngày 1 tháng 9 cùng năm, để rồi vào tháng 5 năm 1882, British North Borneo Chartered Company ra đời và chính thức thay thế cho công ty lâm thời đã kể ở trên. Sir Rutherford Alcock trở thành chủ tịch sáng lập, còn Alfred là giám đốc điều hành.
Dù gặp một vài phản đối về mặt ngoại giao từ Hà Lan, Tây Ban Nha và Sarawak (khi này Sarawak chịu sự cai trị của dòng họ Brooke da trắng, những người đã lên ngôi vua từ cách đó khoảng 50 năm), British North Borneo Company vẫn tiến hành tổ chức cái quản và sắp xếp lại mảnh đất này. Sau đó, công ty này nhận được sự thừa nhận về chủ quyền đất đai từ phía nhà vua Brunei và không ngừng mở rộng lãnh thổ.
Năm 1888, Bắc Borneo trở thành đất bảo hộ của Đế quốc Anh. Tuy vậy thì British North Borneo Company vẫn tiếp tục được cai quản trực tiếp, Hoàng gia Anh chỉ can thiệp và chủ trì về sự vụ ngoại giao mà thôi.
Như vậy, cho tới nửa sau thế kỉ 19, Sulu đã từng bước và cuối cùng là hoàn toàn mất phần đất bắc Borneo. Câu chuyện này trùng khít với sự suy sụp không thể ngăn chặn nổi của Vương quốc Hồi giáo này. Cuối cùng, vào năm 1899, sau khi vị vua có thực quyền cuối cùng của Sulu qua đời, vương quốc này trở thành lãnh thổ của Philippines.
Các Sultan của Sulu:
Sharif ul-Hashim: 1450-1480
Kamalud-Din: 1480-1505
Alaud-Din: 1505
Amirul-Umara: 1505-1527
Muizzul-Mutawadi: 1527-1548
Nasirud-Din I: 1548-1568
Muhammad ul-Halim: 1568-1596
Batara Shah Tengah: 1596-1608
Muwallil Wasit I: 1610-1645
Nasir ud-Din II: 1645-1648
Salahud-Din Bakhtiar: 1649-1680
Ali Shah
Nur Sultan ul-Azam
Al Haqunu Ibn Wali ul-Ahad
Shahabud-Din: 1685-1710
Mustafa Shafi ud-Din: 1710-1718
Badarud-Din I: 1718-1732
Nasarud-Din: 1732-1735
Alimud-Din I: 1735-1748; 1764-1773
Bantilan Muizzud-Din: 1748-1763
Mohammad Israel: 1773-1778
Alimud-Din II: 1763-1764; 1778-1789
Sharapud-Din: 1789-1808
Alimud-Din III: 1808
Aliyud-Din I: 1808-1821
Shakirul-Lah: 1821-1823
Jamalul-Kiram I: 1823-1844
Mohammed Pulalun Kiram: 1844-1862
Jamalul A'Lam: 1862-1881
Badarud-Din II: 1881-1884
Harun Ar-Rashid: 1886-1894
Jamalul-Kiram II: 1894-1936
Muwallil Wasit II: 1936
Amirul Umara I: 1937-1950
Jainal Abirin: 1937-1950
Sultan Mohammed Esmail El Kiram I: 1950-1974
Sultan Moh. Mahakuttah A. Kiram: 1974-1980
Moh. Punjungan Kiram: 1980-1983
Abirin Aguimuddin: 1983
Jamal ul-Kiram III: 1983-1990
Jamal ul-Kiram III: 1983-1990
Raja Muda Muedzul Lail Tân Kiram: 1986-nay
Mohammad Akijal Atti: 1990-1999
Ismael Kiram II: 1999 - nay
