✨Hồ Đắc Điềm
Hồ Đắc Điềm (1899-1986) là Tiến sĩ Luật, Giáo sư Việt Nam, quan nhà Nguyễn ngạch Tư pháp, đã từng giữ chức Bố chánh tỉnh Bắc Ninh, Tổng đốc Hà Đông. Sau năm 1945 ông là nhân sĩ trí thức, tham gia bộ máy chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giữ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Gia thế
Ông xuất thân trong gia đình dòng dõi quý tộc nổi tiếng ở kinh đô Huế. Ông quê ở làng An Truyền, tổng Quảng Xuyên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên (nay là làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, thành phố Huế).
Thân sinh ông là Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung, đỗ Cử nhân, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Học, Đông các Đại học sĩ, sung Cơ mật đại thần, tứ trụ đại thần triều đình thời vua Duy Tân và Khải Định .
Người anh là Cử nhân Nho học Hồ Đắc Khải giữ chức Thượng thư bộ Hộ. Ba người em trai là Bác sĩ Hồ Đắc Di sau là Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội), Kỹ sư Khoáng học Hồ Đắc Liên (sau là Cục trưởng Cục Địa chất) và Tiến sĩ Dược khoa Hồ Đắc Ân (Phó chủ tịch Hội trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh). Bốn người em gái là Hồ Thị Chỉ - là vợ vua Khải Định, Hồ Thị Hạnh - tức sư bà Diệu Không, Hồ Thị Phương và Hồ Thị Huyên - là vợ Hoàng thân Nguyễn Phúc Ưng Úy.
Tuy xuất thân Nho học, nhưng cha, mẹ ông là cụ Châu Thị Ngọc Lương đều hướng các con theo hướng văn hóa Tây phương. Bốn anh em trai đều được sang Pháp học tập.
Ông lấy vợ là Hoàng Thị Lý con gái Võ hiển điện Đại học sĩ Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc Hà đông.
Ban đầu ông sang Pháp học Tiến sĩ luật. Vợ ông cũng sang theo để cơm nước nuôi bốn anh em nhà chồng học hành đỗ đạt. Đang làm luật sư bên Pháp cùng ông Trịnh Đình Thảo thì ông được gọi về nước.
Cuộc sống ở Huế
Ông theo ngạch tư pháp và hành chính. Ban đầu ông làm Tham tri Bộ Hình ở Huế.
Ông thích tự do cho nên đã học cả kịch nghệ định mở gánh hát, và đã cùng với ông Khái Lợi ở phố Đông Ba lập ra nhà chiếu bóng Tân Tân ở Huế, mua nhiều phim châu Âu về chiếu. Ông còn đi dạy ở trường Hồ Đắc Hàm, một kiểu trường bổ túc văn hoá cho người nghèo. Suốt đời ông tha thiết với việc nâng cao dân trí, là người luôn đi đầu trong phong trào xoá nạn mù chữ, bình dân học vụ từ năm 1945 cho đến khi nhắm mắt.
Ra miền bắc
Sau đó ông ra miền Bắc, là Giáo sư Việt Nam đầu tiên tại Trường Đại học Luật khoa Hà nội, sau làm Chánh án Toà Thượng thẩm Hà Nội. Năm 1937 ông tham gia bào chữa trong vụ án xét xử Phan Tư Nghĩa, rồi công tác đến bình dân học vụ, bổ túc văn hoá với chức danh Uỷ viên Ủy ban hành chính Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội, Ủy viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khoá III.
Trân trọng một gia đình "đại trí thức" (chữ Hồ Chủ tịch dùng) đã hết lòng phụng sự cách mạng và nhân dân, Tết năm Quý Mão 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm gia đình ông.
Vào năm 1977, có một cuộc hội ngộ thật cảm động, năm anh em ruột Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di (Hà Nội), Hồ Đắc Ân (Thành phố Hồ Chí Minh), Hồ Thị Hạnh - tức Sư Bà Diệu Không (Huế) và Hồ Thị Chỉ (tức Ân phi của vua Khải Định) đã vinh dự là đại biểu dự Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đầu tiên của đất nước thống nhất. Đúng là một cuộc trùng phùng đẹp đẽ, có ý nghĩa lịch sử
Năm 1986 ông mất tại Hà Nội, thọ 87 tuổi.
Gia đình
Vợ ông là bà Hoàng Thị Lý, con gái Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu.
Con gái ông là Hồ Thị Thể Tần nguyên giáo viên Văn Trường cấp 3 Trưng Vương, Hà Nội sau chuyển về làm việc ở Sở Giáo dục Hà Nội rồi Bộ Giáo dục cho đến khi nghỉ hưu, có chồng là Luật gia Phạm Thành Vinh, Chánh Văn phòng đầu tiên của Bộ Quốc phòng. Hai người là dịch giả của hai tiểu thuyết "Con đường đau khổ", "Chuông nguyện hồn ai". Cháu gái ông là Tiến sĩ Phạm Thị Như Anh, kiều bào tại CHLB Đức, Chủ tịch Hội bảo trợ văn hoá truyền thống các nước ASEAN ở CHLB Đức.
Con trai ông là Hồ Đắc Hoài, thế hệ kỹ sư địa chất đầu tiên học ở Liên Xô (cũ), sau này là Viện trưởng Viện Dầu khí, Viện trưởng Viện Đất hiếm, Thành viên Hội đồng Quản trị Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Trưởng ban liên lạc họ Hồ Việt Nam khóa II.
