✨Hà Đông (thương nhân)
Hà Đông (; 1862 – 1956) tước là thương nhân người lai Âu Á, nhà tư sản mại bản, nhà từ thiện tại Hồng Kông thuộc Anh. Ông được mọi người biết đến là "Hương Cảng Đại lão" () được phong tước hiệp sĩ năm 1915 và 1955.
Tiểu sử
Ảnh bà Thi Đệ, mẹ của ông Hà Đông Ông Hà Đông có tên đầy đủ là Hà Khải Đông (啟東), tên tự là Hiểu Sinh. Cha là Hà Sĩ Văn (, 29 tháng 8 năm 1839 - 10 tháng 11 năm 1892). Bosman sinh ra ở Hà Lan, đến Hồng Kông vào khoảng năm 1859, ở tuổi 20, ông đang làm việc cho thương nhân Hà Lan, Cornelius Koopmanschap đưa người đi lao động (hay còn gọi là những người đi làm cu li).
Sau khi kết thúc Chiến tranh nha phiến năm 1842, chính quyền nhà Thanh đã nhượng Hồng Kông cho Anh. Vào thời điểm đó, Vương quốc Anh đã thành lập một cảng thương mại nước ngoài tại Hồng Kông. Để có được chỗ đứng tại Hồng Kông càng sớm càng tốt, chính phủ Anh cho phép các doanh nhân từ nhiều quốc gia đến Hồng Kông làm ăn. Trong bối cảnh đó, người Do Thái trẻ đến Hồng Kông một mình để làm kinh doanh. Để hòa nhập với xã hội Hồng Kông càng nhanh càng tốt, ông Bosman đã đặt cho mình một cái tên tiếng Trung Quốc là Hà Sĩ Văn.
Ông Bosman gặp bà Thi Đệ tại Hương Cảng và chào đón đứa con đầu tiên khi ông 22 tuổi còn bà 20 tuổi.
Năm 1862, ở tuổi 24, tên công ty được đổi thành Bosman & Co. tại Hồng Kông và Koopmanschap & Co tại San Francisco. Ông cũng trở thành Lãnh sự Hà Lan. Việc vận chuyển "người di cư" đến Guiana thuộc địa của Đế quốc Hà Lan phải được thực hiện dưới sự giám sát lãnh sự của ông ta. Năm 1867, Quốc hội Hoa Kỳ đã cấm buôn bán người lao động đến Hoa Kỳ như một hình thức nô lệ.
Năm 1868, ở độ tuổi 29, ông Bosman là đồng sở hữu của khách sạn Hồng Kông năm 1868 và có mặt tại lễ khai trương. Ông cũng là giám đốc của Công ty Hong Kong and Whampoa Dock Company. James Whittall, đối tác cao cấp thường trú của Jardines vào thời điểm đó, là chủ tịch của Công ty Dock, cùng J. Wittall, người mà Bosman đang làm việc trước khi qua đời.
Bosman được Đại sứ Hà Lan tại Anh mô tả là "một người đàn ông có uy tín, được đón nhận trong giới thượng lưu" và là một trong những doanh nhân quan trọng nhất với Trung Quốc và Hồng Kông. Tuy nhiên, công việc kinh doanh của ông ta không được tốt. Ông đã bán tài sản của mình và rời Hồng Kông, cũng để lại bà Thi Đệ và năm đứa con của họ. Ở tuổi 28, bà Thi Đệ trở thành vợ lẽ của ông Quách Hưng Hiền (郭兴贤) và có ba đứa con với ông.
Năm 1873, khi Bosman 34 tuổi, ông bắt đầu "Đại lý Đông Phương" ở Luân Đôn. Bốn năm sau, khi 38 tuổi, ông kết hôn với Mary Agnes Forbes ở San Francisco, ngày 4 tháng 10 năm 1877 và cô cũng chuyển đến London. Cha của Mary là Alexander, một "người tiên phong" nổi tiếng ở Vùng Vịnh, phát triển các phân khu đất ở San Rafael gần San Francisco. Dường như Alexander Forbes, cha vợ của Bosman, là người Anh và là chủ tịch của Ủy ban San Francisco của Quỹ Anglo-California, và Bosman đã đại diện cho họ khi đưa một chiếc quan tài bằng vàng và bạc quý giá cho Thủ tướng Anh Benjamin Disraeli năm 1879.
Trên các tờ báo của Úc, "Đại lý Đông Phương" đã bị đưa thông tin lên báo về việc bị thanh lý vào năm 1885 và bất kỳ chủ nợ nào cũng được yêu cầu liên hệ với C.H.M. Bosman ở London. Sau đó, Bosman gia nhập J. Wittall & Co và làm việc ở đó cho đến khi qua đời bảy năm sau đó.
Trong khi Bosman tán tỉnh cô Mary Agnes thì những cậu con trai của bà Thi Đệ đã ở tuổi thiếu niên, được giáo dục tại "Trường trung tâm", Hồng Kông (sau này là Queen's College) nhưng không biết ai đã trả học phí cho họ. Một trong những người con trai đó đã trở thành Ngài Robert Hà Đông.
Ông Hà Đông cùng các anh chị em được mẹ nuôi dưỡng. Ban đầu ông được học Hán văn, tứ thư, tam sử, bát cổ văn tại trường tư thục. Năm 1873, khi 11 tuổi, ông theo học trường Trung tâm (tiền thân của trường trung học Queen's College) để tiếp thu nền giáo dục phương Tây. Chẳng mấy chốc, ông được bổ nhiệm làm tổng mãi biện chung cho hai công ty mới thành lập là Công ty bảo hiểm Hỏa Chúc Hồng Kông (香港火燭保險公司) và Công ty bảo hiểm Hồng Kông (廣東保險公司).
Với một số vốn nhất định, Hà Đông và các anh em của mình đã thành lập một quan hệ đối tác (Ho Tung & Co.) tham gia vào kinh doanh đường. Gia tộc duy trì những mối quan hệ hôn phối với đối tác đảm trách những khu vực kinh doanh quan trọng.
Gia đình
Một năm sau khi gia nhập chi nhánh của Jardine, Hà Đông kết hôn với Mạch Tú Anh (Margaret Maclean; 1865- 1944), con gái của ông Hector Coll Maclean người Scotland, làm đại lý bảo hiểm của Jardine tại Thiên Tân. Bà Mạch cũng là người lai nhưng có tư tưởng giống người Trung Quốc. Mối quan hệ sau khi kết hôn rất tốt, nhưng họ không có con trong một thời gian dài, đó cũng là điều hối tiếc của họ, vì vậy Hà Đông đã lên kế hoạch cưới thêm một người vợ lẽ, bà Mạch chỉ đơn giản là đồng ý, nên Hà Đông kết hôn với phụ nữ Hán tên là Châu Ỷ Văn (周綺文).
Sau ba năm, bà Châu vẫn chưa có con, điều này khiến hai người rất buồn. Bà Mạch Tú Anh quyết định tìm một người vợ lẽ khác. Lựa chọn là em họ tên Trương Tĩnh Dung (Clara Cheung Ching- Yung; 1875-1938), con gái của ông Trương Đức Huy (張德輝). Cha của Trương Đức Huy là Thomas Ash Lane, một trong những người sáng lập Lane Crawford và bố vợ là G.B.Glover, người Anh. Thời gian đầu, ông Trương Đức Huy từng làm việc tại Hải quan Cửu Giang, Trung Quốc, và sau đó chuyển đến Thượng Hải. Ông từng đưa gia đình đến sống ở Thượng Hải trong vài năm. Con ông được giáo dục theo phương Tây ở Hồng Kông và Thượng Hải. Ông và Trần Khải Minh, Tiển Đức Phần, Thi Bỉnh Quang đều là người lai Âu Á tại Hồng Kông, trở thành bạn bè rồi kết nghĩa anh em.
Bà Mạch đã kiên nhẫn thuyết phục mẹ của Trương Tĩnh Dung rằng cô gái sẽ trở thành vợ ngang hàng (bình thê). Bình thê có nghĩa tương đương với việc hai người có cùng địa vị trong nhà. Ngoài ra còn có ngoại phụ (vợ lẽ) là Châu Xuân Lan (朱春蘭) sinh ra người con ngoài giá thú Hà Tá Chi (何佐芝).
Hai người phụ nữ đều được coi là mẹ của 10 người con. Năm 1906, gia đình ông Hà trở thành gia đình Trung Quốc đầu tiên được cấp phép đặc biệt của chính phủ để độc quyền cư trú tại khu Peak, đỉnh ngọn núi Victoria, Hồng Kông. Mặc dù gia đình giàu có, tuy nhiên những đứa trẻ đã bị từ chối nhập học tại trường Peak với lý do các phụ huynh khác đã đe dọa tẩy chay."
thumb|Gia đình ông Hà Đông. Năm 1908, khi đi bằng tàu từ Hồng Kông đến London, Hà Đông đã bị từ chối nhập cảnh tại San Francisco. Theo báo cáo, ông đi cùng hai vợ và ba đứa con đến từ phương Đông trên tàu thủy hơi nước Triều Tiên từ hôm trước và có lệnh trục xuất. Quyết định này được đưa ra bởi một hội đồng điều tra đặc biệt. Ông Hà Đông kháng cáo quyết định của Bộ trưởng Straus tại Washington. Ông Hà Đông nói rằng ông không thấy có vấn đề gì với chế độ đa thê. Cha ông là người Hà Lan và mẹ là người Trung Quốc còn bản thân ông là một công dân nổi tiếng của Hồng Kông. Bà Mạch phải quay về vào ngày hôm sau. Robert kháng cáo và cùng bà Trương, những đứa con và Kate Archer ở lại. Kháng cáo đã bị từ chối và sau đó tất cả phải quay về nước vào tháng 4 năm 1909.
Sau khi kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80, ông tiến hành chuyến vượt biển, sang Ma Cao để nghỉ mát, mua một món quà lưu niệm còn bà Mạch tiếp tục ở lại Hồng Kông. Hồng Kông thất thủ vào ngày 25 tháng 12 năm 1941 và Hà Đông phải ở lại Ma Cao. Trong thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng, bà Mạch đã làm việc chăm chỉ để bảo vệ mọi người trong gia đình và cho phép hàng xóm sử dụng nước giếng trong biệt thự của gia đình trên đường Seymour. Bà đã đến Ma Cao để thăm chồng vào năm 1943. Sau khi ở lại một vài tuần, bà trở về Hồng Kông để làm một số việc nhà. Cuối cùng, bà qua đời vào tháng 2 năm 1944 khi bên cạnh chỉ có một người con trai.
Danh sách con
Dựa theo xếp thứ tự trong gia tộc, trực hệ của Hà Đông gọi là Hà Nhị Trạch, ông Hà Đông đặt tên phả hệ nhà mình là Hà Xương Viễn Đường.
- Vợ cả: Mạch Tú Anh ** Con thừa tự: Hà Thế Vinh (nhận con của ông Hà Khải Phúc làm con nuôi)
- Bình thê: Trương Tĩnh Dung Trưởng nữ: Hà Cẩm Tư(Victoria) Trưởng nam: Hà Thế Cần(Henry) Con gái thứ 2: Hà Tuệ Tư(Daisy) Con trai thứ 2: Hà Thế Kiệm(Edward) Con gái thứ 4: Hà Nhàn Tư (Eva) Con gái thứ 5: Hà Kỳ Tư(Irene) Con trai thứ 3: Hà Thế Lễ(Robert) Con gái thứ 6: Hà Văn Tư(Jean) Con gái thứ 7: Hà Nghiêu Tư(Grace) Con gái thứ 8: Hà Hiếu Tư(Florence)
- Vợ lẽ: Châu Ý Văn ** Con gái thứ 3: Hà Thuần Tư(Mary)
- Ngoài hôn nhân: Châu Xuân Lan ** Con trai: Hà Tá Chi/Hà Thế Nghĩa(George)
Từ thiện
Ông Hà Đông đã tích cực đóng góp cho Đại học Hồng Kông vào thập niên 30-40, cụ thể như sau:
- 50.000 HK$ tiền mặt cho mục đích giảng dạy;
- 100.000 HK$ tiền mặt cho Quỹ hỗ trợ của Đại học Hồng Kông;
- Phòng thí nghiệm máy móc Hà Đông;
- 1.000.000 HK$ tiền mặt để xây dựng Nhà tưởng niệm Phu nhân Hà Đông
Trước khi kết thúc cuộc đời, một quỹ từ thiện ủy thác (Quỹ từ thiện Sir Ho Dong) đã được thành lập ở mức 500.000 đô la Hồng Kông; Trong những năm qua, quỹ đã đầu tư tốt và tăng giá trị lên tới gần 500 triệu, và lợi nhuận đã được quyên góp cho các tổ chức từ thiện.
Qua đời
Ông Hà Đông là một người rất Hán hóa, đức tin theo đạo Lão và đạo Phật nhưng trước khi mất đã cải sang đạo Tin lành và được rửa tội bởi mục sư Thi Ngọc Kỳ (Rev. Canon George Samuel ZIMMERN), là bên thông gia nhà con rể La Văn Cẩm.
Ngày 26 tháng 4 năm 1956, ông Hà Đông qua đời tại Hồng Kông, hưởng thọ 93 tuổi. Những người nổi tiếng về chính trị lẫn kinh doanh đều bày tỏ lời chia buồn, bao gồm Tưởng Trung Chính, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, sau đó là Thống đốc Hồng Kông Alexander Grantham.
Ngày 2 tháng 5 cùng năm, ông được chôn cất tại nghĩa trang Công giáo Loan Tể, Hồng Kông.
Hình ảnh
