✨Dương Phổ
Dương Phổ (, 900-21 tháng 1 năm 939), gọi theo thụy hiệu là Ngô Duệ Đế, tôn hiệu là Cao Thượng Tư Huyền Hoằng Cổ Nhượng hoàng đế (高尚思玄弘古讓皇帝) hay gọi tắt là Nhượng hoàng đế, là quân chủ cuối cùng của nước Ngô thời Ngũ Đại Thập Quốc, cũng là vị quân chủ duy nhất của nước Ngô từng xưng đế. Trong thời gian ông trị vì, chính sự trên thực tế nằm dưới quyền kiểm soát của Từ Ôn và con nuôi Từ Tri Cáo. Năm 938, Từ Tri Cáo buộc Dương Phổ phải nhượng vị cho mình, lập ra nước Nam Đường.
Thân thế
Dương Phổ sinh năm 900, dưới triều đại của Đường Chiêu Tông, là tứ tử của Hoài Nam tiết độ sứ Dương Hành Mật. Năm 919, trong thời gian trị vì của nhị huynh Dương Long Diễn, Dương Phổ được phong tước Đan Dương quận công.
Lên ngôi
Năm 920, Dương Long Diễn lâm bệnh, người nắm quyền lực trên thực tế trong chính quyền Ngô là Từ Ôn đến Giang Đô để thảo luận với các quan lại ở đây về việc chuyển giao quyền lãnh đạo. Một số thuộc hạ của Từ Ôn đề nghị ông ta soán vị, song Từ Ôn bác bỏ và nói rằng sẽ tìm một nhi tử khác của Dương Hành Mật để tập vị Dương Long Diễn. đoàn luyện sứ. Dương Long Diễn qua đời vào ngày 17 tháng 6 năm 920 DL, đến ngày 7 tháng 7 DL thì Dương Phổ kế thừa vương vị nước Ngô, tôn mẫu thân Vương thị là Thái phi. của Hậu Lương, Hậu Đường Trang Tông đích thân viết thư cho Dương Phổ, đề nghị hai bên cùng hợp binh tiến công Hậu Lương. Tuy nhiên, vào thời điểm này Ngô cũng bắt đầu nhận thấy Hậu Đường là một mối đe dọa, vì thế Từ Ôn dự tính khiển một hạm đội tiến về phía bắc, hỗ trợ bên nào chiếm ưu thế. Nghiêm Khả Cầu (嚴可求) sau đó can gián, Từ Ôn quyết định không hành động.
Cũng trong năm đó, Hậu Đường Trang Tông chiếm được thủ đô Đại Lương của Hậu Lương, hoàng đế Chu Hữu Trinh của Hậu Lương tự sát. Sau đó, Hậu Đường khiển sứ giả đến Ngô cáo việc diệt Hậu Lương, đem theo chiếu chỉ của Hậu Đường Trang Tông, song Ngô không xem mình là chư hầu của Hậu Đường nên từ chối tiếp nhận. Hậu Đường Trang Tông sau đó viết thư, song thể hiện ưu thế khi viết: "Đại Đường hoàng đế đưa thư cho Ngô quốc chủ". Dương Phổ phục thư, xưng "Đại Ngô quốc chủ thượng Đại Đường hoàng đế". Không lâu sau, Dương Phổ cũng khiển Lô Bình (盧蘋) đi sứ sang Hậu Đường. Khi Lô Bình trở về Ngô, bẩm lại rằng (Hậu) Đường chủ chìm đắm trong ngao du và săn bắn, keo kiệt trong chuyện tiền bạc và khước từ lời can gián, nội ngoại đều oán. để xem xét lâu thuyền, ông đổi tên Bạch Sa thành Nghênh Loan trấn ("nghênh loan" (鑾鎮) tức là "đón vua"). Từ Ôn khi đó đóng quân tại Kim Lăng, còn Từ Tri Cáo ở Giang Đô giám sát triều đình, đều đến yết kiến Dương Phổ, và Dương Phổ nhân thời cơ này để than phiền về thân lại của Từ Ôn là Trạch Kiền (翟虔)- người mà Từ Ôn cho quản lý các môn, cung thành, võ bị; do Trạch Kiền đặt ra nhiều hạn chế trong việc di chuyển của Dương Phổ và theo dõi các động thái của ông. (Dương Phổ chủ động than phiền khi cố ý nói đến vũ (雨, mưa) và "thủy" (水, nước), do tên phụ thân của Trạch Kiền là Trạch Vũ. Dương Phổ nói rằng mặc dù là quân chủ, song vì lo sợ Trạch Kiền nên phải húy kỵ cả phụ danh của Trạch Kiền). Từ Ôn lạy đầu sát đất tạ tội, thỉnh trảm Trạch Kiền, song Dương Ác nói rằng việc này không cần thiết mà chỉ cần lưu đày là đủ, do vậy Từ Ôn đày Trạch Kiền đến Phủ châu.
Năm 925, quốc vương Tiền Lưu của nước Ngô Việt khiển sứ sang Ngô để thông báo rằng mình được Hậu Đường Trang Tông phong làm quốc vương nước Ngô Việt. Do trong quốc hiệu của Ngô Việt có chữ "Ngô", Ngô từ chối tiếp nhận sứ giả của Tiền Lưu, còn cắt đứt quan hệ ngoại giao và mậu dịch giữa hai nước.
Năm 926, Hậu Đường Minh Tông tức vị tại Trung Nguyên sau các cuộc binh biến, Dương Phổ khiển sứ sang thiết lập quan hệ hữu hảo, đem theo lá trà tươi cống nạp, song trong nước cũng dành ra một thời kỳ để tang Hậu Đường Trang Tông.
Năm 927, khi Mã quân đô chỉ huy sứ Sài Tái Dụng (柴再用) của Ngô đến yết kiến Hậu Đường Minh Tông, song lại mặc áo giáp nên bị kết tội. Sài Tái Dụng cậy có công nên không phục. Thị trung Từ Tri Cáo sau đó cố gắng khôi phục kỷ luật trong quân đội Ngô bằng cách cố tình "lỡ" xâm nhập vào cung điện, sau đó ngay lập tức thoái lui và tự hặc tội. Dương Phổ ra chiếu bất vấn, song Từ Tri Cáo cố thỉnh được tước trừ một tháng bổng lộc.
Cuối năm 927, Từ Ôn chuẩn bị từ Kim Lăng đến Giang Đô để thúc giục Dương Phổ xưng đế, và sau đó nhân cơ hội này để tái bổ nhiệm nhị tử Từ Tri Tuân và Từ Tri Cáo. Tuy nhiên, khi rời khỏi Kim Lăng, Từ Ôn lâm bệnh, vì thế ông ta khiển Từ Tri Huấn đi thay. Từ Tri Cáo hay tin thì chuẩn bị từ vị và thỉnh được trao cho chức Trấn Nam tiết độ sứ, song Từ Ôn qua đời trong khi Từ Tri Huấn đang trên đường đi. Từ Tri Huấn vội vã trở về Kim Lăng để lo hậu sự cho phụ thân, Từ Tri Cáo vẫn phụ trách chính sự. Dương Phổ truy phong Từ Ôn là Tề vương.
Trong khi đó, Từ Tri Cáo từ lâu đã muốn soán vị, song vì Dương Phổ được đánh giá là đức độ và không mắc sai lầm, nên Từ Tri Cáo quyết định đợi đến khi Dương Phổ qua đời thì mới tức vị, nhận được sự đồng thuận của Tống Tề Khâu. Cuối năm 934, Dương Phổ hạ chỉ bổ nhiệm Từ Tri Cáo làm Đại thừa tướng, Thượng phụ, kế tục tước Tề vương, ban cửu tích, song Từ Tri Cáo không nhận.
Vào mùa đông năm 935, khi Dương Phổ lại hạ chỉ bổ nhiệm Từ Tri Cáo làm Thượng phụ, Thái sư, Đại thừa tướng, Đại nguyên soái, tiến phong Tề vương, ban cho 10 châu: Thăng, Nhuận, Tuyên, Trì, Thiệp, Thường, Giang, Nhiêu, Tín, Hải lập thành Tề quốc. Từ Tri Cáo chấp thuận tước Tề vương, chức Thái sư, Đại thừa tướng, từ chối nhận Thượng phụ và Đại thừa tướng. Vào mùa đông năm 936, Dương Phổ hạ chiếu để Từ Tri Cáo trí bá quan, lấy Kim Lăng phủ làm Tây Đô. thành Đan Dương cung, nghênh đón Dương Phổ đến ở. Không lâu sau, toàn bộ các thành viên của hoàng tộc Dương Ngô cũng được chuyển đến Đan Dương cung, bị giám sát nghiêm ngặt.
Ngày 21 tháng 1 năm 939, Dương Phổ qua đời. Nam Đường Liệt Tổ phế triều 21 ngày, truy tự "Duệ hoàng đế". (Do Dương Phổ qua đời một thời gian ngắn sau khi nhượng vị, người ta cho rằng ông bị giết theo lệnh của Nam Đường Liệt Tổ, song thiếu chứng cứ.)
