✨Doãn Kế Thiện (nhà Thanh)
Doãn Kế Thiện (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là Nguyên Trường (元長), cuối đời tự đặt hiệu Vọng Sơn (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là thành viên Quân cơ xứ, công thần trị thủy của vùng Giang Nam.
Thân thế
Doãn Kế Thiện là con trai thứ năm của Đại học sĩ Doãn Thái, sử cũ có truyện. Mẹ là Từ thị, vốn là trắc thất của Doãn Thái, vào lúc Doãn Kế Thiện làm Vân Quý tổng đốc, được Ung Chính Đế phá lệ, phong làm Nhất phẩm Phu nhân.
Thiếu thời
Thị tộc Chương Giai nhiều đời định cư ở Liêu Đông, sau khi Doãn Thái cáo bệnh rời chức Quốc tử giám tế tửu (1713), đưa cả nhà quay về Cẩm Châu. Ngoại hình của Doãn Kế Thiện được miêu tả: da trắng ít mày râu, mặt to miệng lớn, tiếng trong trẻo vang xa, sẹo đỏ trên mình tươi như chu sa; mắt đẹp còn hiền từ, dài chừng một tấc.
Năm Ung Chính đầu tiên (1723), Doãn Kế Thiện trúng Tiến sĩ, được dẫn kiến; Ung Chính Đế vui vẻ hỏi: “Ngươi là con trai của Doãn Thái à? Quả nhiên là đại khí.” Doãn Kế Thiện được chọn vào Hàn lâm viện, làm Thứ cát sĩ, thụ chức Biên tu.
Sự nghiệp
Thời Ung Chính
Năm thứ 5 (1727), Doãn Kế Thiện được thăng làm Thị giảng, sau đó được Di Thân vương tâu xin cho thự chức Hộ bộ Quý Châu tư lang trung. định phí gạo theo đơn vị thạch (100 thăng hay 120 cân) là 6 phân tiền, một nửa cấp tráng đinh phục vụ tào vận, một nửa cấp cho châu huyện, khiến tiền nong không còn thiếu thốn, nên xác định thành phép tắc; Bình thiếu dư dả cũng không lợi cho chánh quyền, đáp ứng gửi ở kho huyện, nhưng việc quyên ngũ cốc của Thường bình thương phải thuận theo ý muốn giao nộp của dân, không được dò xét thủy vận để áp đặt thu thuế. Triều đình mệnh cho làm theo lời bàn này. Doãn Kế Thiện lại dâng sớ xin cho Sùng Minh tăng thêm Tuần đạo, kiêm quản hạt Thái Thương, Thông Châu; gồm chỉnh lý định chế tướng, lại phân chia phòng bị các bãi Vĩnh Hưng, Ngưu Dương, Đại An; Phúc Sơn tăng sở hữu sa thuyền, cùng các tấn Lang Sơn, Kinh Khẩu hội sáo (tuần tra); lại xin dời Án sát sứ trú Tô Châu, Tô Tùng đạo trú Thượng Hải. Triều đình đều nghe theo. Doãn Kế Thiện được trở lại thự chức Hà đạo tổng đốc., cùng thủy binh Trấn Giang, Giang Ninh mỗi tháng ra tuần xét, thứ nữa là đối với mấy ngàn dặm Trường Giang tạo được thanh thế liền lạc.” Hoàng đế khen ngợi. Doãn Kế Thiện xin thanh tra thuế ruộng bị nợ đọng ở Giang Tô, đế sai bọn thị lang Bành Duy Tân giúp để liệu lý, lại mệnh Chiết Giang tổng đốc Lý Vệ tham gia việc này. Bọn họ xét ra từ năm Khang Hi thứ 51 (1712) đến năm Ung Chính thứ 4 (1726) thất thu lên đến 10,170,000 tiền, Hoàng đế mệnh cho phân biệt từng khoản là quan tham ô hay dân thiếu nợ, theo từng năm mà trưng thu. Vì thế mọi người bàn bạc với nhau để xử lý. Doãn Kế Thiện lại xin đổi Tam Giang doanh đồng tri làm Diêm vụ đạo, rồi đặt thêm tướng, lại làm Tập tư. Tư Mao: đông đạo phủ dụ 36 trại Du Nhạc, tây đạo đánh Lục Độn, phá 15 trại, thu hàng hơn 80 trại. Doãn Kế Thiện dâng sớ báo cáo, Hoàng đế dụ rằng: “Tiễu – phủ về danh nghĩa là 2 việc, ân uy khi dùng há lại chia 2 mối? Đối với người được phủ dụ đừng ngại tỏ rõ bao dung, đối kẻ bị tiễu trừ cũng nên bày ra tàn nhẫn, sao cho chúng biết thuận thì lợi, nghịch thì hại. Lúc này dùng binh cần đánh vào lòng người, tức hành động để làm gương cho những trường hợp về sau, như thế là nhân thuật vậy. Nhớ đấy!”
Năm thứ 12 (1734), Doãn Kế Thiện tâu trình các việc sắp xếp khai hoang Miêu Cương, xin dời Thanh Giang trấn (nay là Kiếm Hà) tổng binh sang Đài Củng, rồi dời đặt quan chức từ Đồng tri trở xuống, thêm binh đặt Tấn, triều đình nghe theo. Doãn Kế Thiện lại tâu Vân Nam khơi sông Thổ Hoàng, từ Thổ Hoàng đến Bách Sắc dài hơn 740 dặm (theo chiều bắc – nam), được nhận chỉ dụ khen ngợi. Trong năm này, triều đình đổi Quảng Tây nằm dưới quyền của Quảng Đông tổng đốc.
Năm thứ 13 (1735), Doãn Kế Thiện tâu việc sắp xếp thể chế của các doanh An Lung (nay là An Long). Người Miêu ở Quý Châu lại khởi nghĩa, Doãn Kế Thiện phát binh Vân Nam, còn trưng binh Hồ Quảng, Quảng Tây sách ứng. Doãn Kế Thiện sai phó tướng Kỷ Long tiễu Thanh Bình (nay là Khải Lý), tham tướng Cáp Thượng Đức thu 2 thành mới cũ Hoàng Bình, hợp binh trấn áp Trọng An (phía nam Hoàng Bình); bọn phó tướng Chu Nghi giành lại Dư Khánh, bắt bọn thủ lĩnh La Vạn Tượng; tổng binh Vương Vô Đảng, Hàn Huân tiễu trừ 8 trại, tổng binh Đàm Hành Nghĩa tiễu trừ Trấn Viễn. Doãn Kế Thiện lại lệnh cho Vương Vô Đảng hợp binh Quảng Tây, Hồ Nam rồi hội với Đàm Hành Nghĩa, phá trại người Miêu, chém hơn ngàn thủ cấp, bắt bọn thủ lĩnh A Cửu Thanh, bình định xong khởi nghĩa của người Miêu., gây hại càng dữ.” (Sau khi làm đập thì phần thượng du của sông giữ nước nên gọi là hồ.) Đế rốt cục làm theo lời bàn của Doãn Kế Thiện. Năm thứ 10 (1745), được thực thụ Lưỡng Giang tổng đốc. Năm thứ 12 (1747), Doãn Kế Thiện dâng sớ nói: “Các nơi Phụ Ninh, Cao, Bảo ở bờ sông cứ cách năm tu sửa, cần lệnh cho họ ở ngoài đấy chọn nơi thích hợp, gạt đất khơi ngòi, tính toán dòng chảy để chứa và thoát nước, phòng ngừa nguy cơ hạn hán hay ngập úng. Phượng, Dĩnh, Tứ đã 3 năm liền gây lụt, sông kênh trên dưới được khơi thông, còn bờ đập của vùng đất trồng trọt để che chắn cho ruộng lúa và hoa màu, cũng nên tu sửa không dứt. Lâu ngày sẽ thấy hiệu quả, nên đốc thúc thi hành xa gần.” Đế dụ rằng: “Việc này thật là mưu tính căn bản, hãy dốc sức mà làm.” liên tiếp bị lụt, dâng sớ xin khơi Tuy Hà, Bành Gia Câu (ngòi) ở Túc Châu, Tạ Gia Câu ở Tứ Châu, thượng du Biện Hà ở huyện Hồng (nay là huyện Tứ), xây cầu Phù Li ở Túc Châu, cầu Tân Mã ở Linh Bích, cầu Vĩ Hoàng Minh, cầu Địch Gia ở Sa Cương Hà; có chiếu đồng ý với lời xin này. Dân La Điền là Mã Triều Trụ khởi nghĩa, Doãn Kế Thiện truyền hịch cho tổng binh Mục Quang Tông đi bắt, còn mình đến Thiên Đường Trại, bắt gia thuộc, đồ đảng của Triều Trụ; được nhận chỉ khen ngợi, triệu về kinh sư.
- Không có tài liệu nào nói rõ Doãn Kế Thiện có bao nhiêu con trai, con gái. Theo văn bia, các con của Doãn Kế Thiện đều có học thức, người con đứng ra tổ chức tang lễ là Khánh Ngọc. Một người khác là Khánh Quế, cũng làm đến Đại học sĩ như ông và cha, là trường hợp hiếm có trên quan trường đời Thanh, sử cũ có truyện. Ngoài ra còn có Khánh Lan, một trong những nhà văn được cho là tác giả của bộ tiểu thuyết Huỳnh song dị thảo.
Trước tác
- Doãn Văn Đoan công thi tập 10 quyển, ngày nay còn [http://ctext.org/wiki.pl?if=gb&res=804635 8 quyển]
- Năm Ung Chánh thứ 7 (1729), Doãn Kế Thiện dâng lên Li dịch tào sự sớ, mở đầu công cuộc bài trừ các tệ đoan tồn tại nhiều năm ở Giang Tô nói riêng, và khu vực Lưỡng Giang nói chung. Sớ này được xem là một trong những ví dụ tích cực trong việc cải cách chánh trị - xã hội đời Thanh, được đưa vào Ngụy Nguyên, Hạ Trường Linh – Hoàng triều kinh thế văn biên [http://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=456754&remap=gb quyển 46].
