✨Đồ gốm Quân
nhỏ|Bát sành – đồ gốm Quân (8,6 × 14,9 cm), vuốt trên bàn xoay gốm, men lam với mảng màu tía, thời Kim (1127–1234). thumb|Chậu hoa lục giác với giá đỡ có sọc màu (cao 13,5 cm, rộng 21,6 cm, sâu 13,9 cm), chữ in chìm dưới đáy 七 (7) trong gốm Quân quan, thời Minh, 1400–1435. Bảo tàng Anh, PDF A9. thumb|Chén uống rượu, men mờ màu ánh lam với các mảng màu đỏ-tía, thời Kim mạt hoặc Nguyên sơ, thế kỷ 12–13.
Đồ gốm Quân hay Quân diêu () là một loại đồ gốm Trung Quốc, một trong Ngũ đại danh diêu trong gốm sứ thời Tống. Mặc dù nổi tiếng nhưng nhiều điều về đồ gốm Quân cho tới nay vẫn chưa rõ ràng và là chủ đề tranh luận của các chuyên gia. Bao hàm trong thuật ngữ này là một số loại đồ gốm khác nhau, được sản xuất trong nhiều thế kỷ và ở một số địa điểm khác nhau, từ thời Bắc Tống (960–1127) qua thời Kim (1115–1234) tới thời Nguyên (1271–1368), và như đã trở nên rõ ràng hơn trong những năm gần đây thì còn kéo dài tới đầu thời Minh (1368–1644).
Một số đồ gốm trong số này là dành cho thị trường bình dân, đặc biệt là các loại đồ đựng/uống rượu, nhưng những đồ vật khác dường như được làm dành cho triều đình và được biết đến như là "đồ gốm Quân quan" (Quân quan diêu); chúng không được đề cập trong các tài liệu đương đại và niên đại của chúng vẫn còn gây tranh cãi. Chúng hầu hết là những chiếc bát hay chậu hoặc bồn để trồng các loại cây thân hành (như thủy tiên) hoặc chậu hoa với các giá đỡ phù hợp, có thể thấy trong nhiều bức họa vẽ các cảnh cung đình. Sự đồng thuận gần như là đạt được, chủ yếu được thúc đẩy bằng việc diễn giải các cuộc khai quật tại các lò gốm, chia đồ gốm Quân thành hai nhóm: một nhóm lớn chủ yếu là đồ gốm tương đối bình dân và phổ biến, được làm với các hình dạng đơn giản từ thời Bắc Tống đến thời Nguyên (có chất lượng thấp hơn); và một nhóm hiếm hơn nhiều gồm các đồ gốm Quân quan được làm tại một khu vực duy nhất là Quân Đài (鈞台) dành cho cung đình vào thời Nguyên và đầu thời Minh. Cả hai loại đều chủ yếu dựa vào việc sử dụng màu men xanh lam và tía để đạt được mục đích tạo ấn tượng trong các sản phẩm của chúng; nhóm thứ hai là các đồ vật với hình dạng cứng cáp dành cho những mục đích sử dụng có địa vị tương đối thấp, như chậu hoa và có lẽ cả những chiếc ống nhổ.
Những hiện vật gốm Quân nổi bật và khác biệt nhất sử dụng màu men từ xanh lam đến tía, đôi khi pha lẫn màu trắng, được làm bằng tro rơm trong men. Hai địa điểm chính có lò sản xuất đồ gốm Quân là trấn Thần Hậu (神垕镇) gần Vũ Châu và tại Lâm Nhữ, đều thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, mặc dù ít nhất là vào thời Nguyên thì còn nhiều địa điểm khác, giải thích cho nhiều khác biệt giữa các hiện vật.
Hán tự để chỉ Quân (鈞) chỉ được kết hợp trong các địa danh khu vực kể từ khoảng năm Đại Định thứ 24 thời Kim Thế Tông nhà Kim (1184) khi thành lập Quân Châu. Tuy nhiên, không có đề cập nào đến các lò gốm Quân trong các nguồn sử liệu từ thời Tống đến thời Nguyên. Đề cập đầu tiên về đồ gốm Quân có lẽ là của học giả Tống Hủ (宋詡), viết năm 1504, trong Tống thị gia quy bộ (宋氏 家 規 部) ("Gia quy họ Tống"). Đồ gốm men đen với các đốm được sản xuất tại trấn Hoàng Đạo (黄道镇), huyện Giáp, Bình Đỉnh Sơn) vào thời Đường có thể được coi là tiền thân của đồ gốm Quân.
Rất có thể là những đồ vật thời kỳ đầu có màu xanh lam rất nhạt thực sự là đồ gốm Sài gần như là huyền thoại trong thế kỷ 10, được ca ngợi nhiều trong các nguồn sử liệu thời kỳ đầu, nhưng không còn bất kỳ mẫu vật rõ ràng nào phù hợp với những mô tả đó. Người ta cũng cho rằng đồ gốm Quân là sự kết hợp các phong cách của đồ gốm hoa Lỗ Sơn thời Đường (Đường quân) với đồ gốm Sài.
Màu tía có lẽ không xuất hiện cho đến đầu thế kỷ 12, và sau đó chỉ được kiểm soát vào cuối thế kỷ này. Đến cuối thế kỷ 13, ít nhất một hiện vật có ký tự được hình thành dưới dạng mảng màu. Đây là một gối tựa đầu trong Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan với ký tự nghĩa "cái gối".
Chất lượng đồ gốm Quân suy giảm dần vào thời Kim và tiếp tục xu thế này trong thời Nguyên. Trong thời Nguyên, việc sản xuất đồ gốm Quân đã lan rộng sang các lò gốm khác ở các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Tây, người ta cho rằng tất cả đồ gốm Quân quan đều được làm ở đó.
Đặc trưng
nhỏ|Bình gốm Quân. Men gốm Quân bao gồm màu xanh lam xám (thiên lam), xanh da trời (thiên thanh), trắng trăng (nguyệt bạch), đỏ (hồng) và tía (tử), với loại được đánh giá cao nhất có các mảng màu đỏ thắm hoặc tía. Thay đổi nhiệt độ và điều kiện môi trường lò nung (khử hay hoàn nguyên hoặc oxi hóa hay dưỡng hóa) làm thay đổi sắc thái màu, một kỹ thuật được gọi là diêu biến [dứu] (窑变[釉]). Vào thời Nguyên, một số vật phẩm, như bình và lư hương tròn, được gắn thêm quai (tay cầm).
Bình
Chén, bát
Đồ gốm Quân "quan"
thumb|Ống nhổ hoặc bình hoa men lam tía, thời Nguyên hoặc Minh. Mặc dù đồ gốm Quân không được các học giả thời Tống đề cập đến khi viết về đồ gốm (hoặc trong các biên niên sử còn sót lại), nhưng ít nhất thì thể loại cuối cùng được đề cập trên đây, loại có "sọc" màu tía trên nền xanh lam, dường như đã được làm cho cung đình, và được biết đến như là hàng gốm "quan" của đồ gốm Quân. Theo Shelagh Vainker, Những chiếc bình rất giống như thế được vẽ với những cây trồng trong đó trong một bức chân dung hoàng cung thời Minh. Bảo tàng Nghệ thuật Walters thận trọng trong việc xác định niên đại, trong khi Bảo tàng Anh ghi niên đại hiện vật của họ là 1403–1435, vào đầu thời Minh.
Kích thước và hình dạng của đồ gốm "quan" khác với các nhóm khác, thường lớn hơn, nặng hơn và có hình dạng phức tạp hơn, tên của một cung điện trong nội cung nhà Tống tại Khai Phong (ít nhất một trường hợp là sự bổ sung thời Thanh). Các hiện vật khác in chìm các chữ từ nhất (một) đến thập (mười) ở đáy. Những hiện vật như vậy đôi khi được gọi là "đồ gốm Quân được đánh số". Cũng có một số vật dụng với hình dạng bồn/bàn đơn giản được làm với chất lượng tương tự, nhưng chúng không được đánh số, như ở chiếc đĩa này với chữ bính (丙) ở đáy.
Có sự khác biệt giữa các tác giả phương Đông và phương Tây trong việc xác định niên đại của chúng. Các tác giả Trung Quốc, phần lớn dựa vào chứng từ các cuộc khai quật tại di chỉ lò gốm Quân Đài, xếp chúng vào cuối thời Bắc Tống, trong khi các tác giả phương Tây xếp chúng vào thời Nguyên hoặc đầu thời Minh. và gần đây, quan điểm đã nghiêng về việc xác định niên đại sớm hơn trong thời nhà Minh (như đề cập trên đây), và một số hiện vật đã được xếp loại lại từ các hiện vật mô phỏng "kiểu Quân" trong đồ gốm Cảnh Đức Trấn thành hiện vật của chính đồ gốm Quân. Vật liệu làm xương gốm Quân quan dường như khá khác biệt so với vật liệu làm các đồ bình dân hơn và có trước đó.]] Nước men của đồ gốm Quân luôn dày và mờ đục. Tuy nhiên, nó thường rất mỏng hoặc không men ở xung quanh gờ trong khi lại dày ở đế, nơi thường có một phần nhỏ không được men che phủ. Cả hai màu xanh lam nhạt và tía lần đầu tiên được nhìn thấy ở đồ gốm Trung Quốc là trong đồ gốm Quân. Các khu vực màu tía là do việc quét hoặc tô vẽ dung dịch chứa đồng (Cu) lên xương gốm sau khi tráng men và trước khi đem nung [trong môi trường hoàn nguyên]. Lớp men chứa một lượng lớn các bong bóng nhỏ hình thành từ các chất khí sinh ra trong men trong quá trình nung. Các bong bóng này, mặc dù không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng lại góp phần tạo nên hiệu ứng thị giác cho các vật phẩm. Các bán thành phẩm được đặt trong các sạp nung gốm riêng biệt trong lò nung. Các đồ vật sao chép hiện đại, sử dụng phương pháp đúc nước áo, vẫn được thực hiện ở quê hương Hà Nam của đồ gốm Quân, mặc dù "tỷ lệ hao phí cao" và kết quả kém thành công hơn so với các đồ gốm Trung Hoa sao chép hiện đại khác.
Đồ gốm Quân chính hiệu tiếp tục có khả năng sưu tập cao và đắt tiền. Trong một cuộc đấu giá tại Christie's New York năm 2016, giá bán là 52.500 USD cho một chiếc bát nhỏ màu xanh lam, 112.500 USD cho một chiếc đĩa màu xanh lam với các mảng màu tía, và 389.000 USD cho chiếc bồn trồng hoa gốm Quân quan "số 3".
