✨Di-lặc
Di Lặc là một Bồ tát sẽ chứng ngộ thành Phật trong tương lai. Trong một số kinh điển Phật giáo như A-di-đà kinh và Pháp hoa kinh, Di Lặc cũng được gọi là Vô Năng Thắng (, sa. ajita, phiên âm Hán-Việt là A-dật-đa), Trong Phật giáo Tây Tạng, Di Lặc được gọi là Pakpa Jampa.
Các trường phái Phật giáo coi Di Lặc là vị Phật kế thừa Thích-ca Mâu-ni. Là vị Phật thứ năm và cuối cùng của kiếp hiện tại, Di Lặc sẽ thuyết lại pháp cho chúng sinh, tương tự như Thích-ca Mâu-ni. Sự kiện Di Lặc chứng ngộ thành Phật sẽ diễn ra trong thời kỳ mạt pháp khi Phật pháp đã bị lãng quên. Bụt tương lai Di Lặc (ở giữa), [[Gandhara, thế kỷ thứ 3]] nhỏ|phải|[[Tượng Phật Di Lặc trên đỉnh núi Cấm, An Giang]] Tượng Di Lặc trong Mật tông, Viện bảo tàng Patan, [[Kathmandu]]nhỏ|Tượng đồng [[Bồ tát Bụt Di lặc trầm ngâm, khoảng thế kỷ thứ 7. Hiện vật nằm trong danh sách quốc bảo của Hàn Quốc.]]
Cơ sở
Kinh điển Đại Thừa
Có nhiều kinh điển Đại Thừa đề cập đến Bồ Tát Di Lặc. Di Lặc là một nhân vật phụ trong nhiều kinh Đại Thừa quan trọng như Pháp hoa kinh, Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Kim quang minh kinh, Kinh Vua của Định và Tiểu phẩm bát-nhã kinh''.
Chân ngôn và đà la ni
nhỏ|Maitreya in a leaf from a [[Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra Manuscript, Bengal, early 12th century]] nhỏ|Close-up of a statue depicting Maitreya Bodhisattva at the [[Thikse Monastery in Ladakh, India]] nhỏ|Maitreya centered altar, [[Buddha Tooth Relic Temple and Museum, Chinatown, Singapore.]] Kinh điển Đại Thừa có nhiều chân ngôn và đà la ni về Di Lặc.
Chân ngôn Di Lặc phổ biến trong Chân ngôn tông là:
oṃ maitreya svāhāMột chân ngôn Di Lặc trong Phật giáo Tây Tạng là:
oṃ āḥ maitrī sarva siddhi hūṃHai chân ngôn khác trong Đại tạng kinh (do Không Hải phiên dịch) bao gồm:
Namaḥ samanta-buddhānāṃ aparājite jayanti svāhā
Namaḥ samanta-buddhānāṃ ajitaṃjaya sarva-sattva-āśaya-anugata svāhā
Di Lặc tại Đông Á
phải|nhỏ|Seated stone-carved Maitreya, [[Leshan Giant Buddha in Sichuan, China]] nhỏ|Statue of Maitreya (Mile Pusa) with the [[Four Heavenly Kings, Baoshan Temple, Shanghai.]] nhỏ|Illustration of the Maitreya Sutra, [[Yulin Caves, Gansu, China]]
Thờ phụng Di Lặc
Phật giáo ở Đông Á bắt đầu thờ phụng Di Lặc từ khi Đạo An (312–85) thành lập tín ngưỡng Di Lặc tại Trung Quốc. Thờ phụng Di Lặc phổ biến vào đời Bắc Ngụy (386–534). Vào đời nhà Tùy có ba người tự xưng là Bồ Tát Di Lặc và phát động nổi loạn nhằm lật đổ nhà Tùy.
Tại Trung Quốc và các nước Đông Á khác, Bồ Tát Di-lặc hay được trình bày với tướng mập tròn, vui vẻ, trẻ con quấn quýt xung quanh. Người ta tin rằng, đó chính là hình ảnh của Bố Đại, được xem là một hóa thân của Di-lặc ở thế kỷ 10.
Hình ảnh
Theo Phật giáo Nguyên thủy và Nam Tông
Theo Phật giáo Nguyên thủy, Nam truyền và Bắc truyền (đến thế kỷ 10)
Theo Phật giáo Bắc truyền và ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa
Hình tượng Di Lặc này là dựa theo tính cách của hòa thượng Bố Đại, được xem là một hiện thân của Di-lặc trong Phật giáo Trung Hoa, khoảng từ thế kỷ 10

