✨Darius I
Darius I (Tiếng Ba Tư cổ: Dārayava(h)uš, Tiếng Ba Tư mới: داریوش Dāriush; 550–486 TCN) là vị vua thứ ba của Đế quốc Achaemenes Ba Tư. Được gọi là Darius Đại đế, dưới triều đại của ông, đế quốc Ba Tư có lãnh thổ rộng lớn nhất khi nó bao gồm phần lớn Tây Á, vùng Kavkaz, một phần của khu vực Balkan (Thracia-Macedonia và Paeonia), hầu hết các khu vực ven bờ biển Hắc Hải, những vùng đất ở Bắc Kavkaz, Trung Á, tới tận là Thung lũng Indus ở xa về phía đông, và một phần ở phía bắc và đông bắc châu Phi, bao gồm Ai Cập (Mudrâya), miền đông Libya và miền ven biển Sudan.
Darius lên ngôi bằng cách lật đổ Gaumata, một thầy pháp tiếm vị và mạo danh mình là Bardiya, với sự hỗ trợ của sáu gia đình quý tộc Ba Tư khác. Darius đã được trao vương miện ngay sáng hôm sau đó. Vị tân vương vừa mới lên ngôi đã phải đối mặt với những cuộc nổi loạn xảy ra toàn quốc và phải dập tắt chúng. Một sự kiện quan trọng trong triều đại của Darius là cuộc viễn chinh nhằm chinh phạt Hy Lạp và bình định thành Athena và Eretria vì họ đã giúp đỡ phiến quân trong khởi nghĩa Ionia. Mặc dù cuộc viễn chinh kết thúc với thất bại trong trận Marathon, Darius đã thành công trong việc tái chinh phục Thracia, mở rộng cương thổ của đế quốc sau khi chinh phục Macedonia, Cyclades và đảo Naxos và vụ cướp phá thành Eretria.
Darius tổ chức lại đế chế bằng cách chia nó thành nhiều tỉnh và đặt quan trấn thủ (satrap) để cai trị. Ông thiết lập một hệ thống tiền tệ mới thống nhất và chọn tiếng Aram làm ngôn ngữ chính thức của đế chế. Ông cũng đưa đế chế lên một vị thế cao hơn bằng cách cho xây dựng đường đi lại và sử dụng hệ thống đo lượng tiêu chuẩn. Qua những cái cách này, đế chế trở nên trung ương hoá và thống nhất hơn. Darius cũng cho xây dựng trên khắp mọi miền đế quốc, tập trung ở Susa, Pasargadae, Persepolis, Babylon và Ai Cập. Cuộc đời và sự nghiệp của Darius được biết đến qua ghi nhận của các sử gia Hy Lạp cổ đại và qua một bi văn cổ khắc trên khối đá, được gọi là bi văn Behistun, một bằng chứng quan trọng về ngôn ngữ Ba Tư cổ. Tuy nhiên, một vài dữ kiện trên bi văn này được xem là hư cấu.
Darius I được đề cập đến trong các sách Haggai, Zechariah và Ezra–Nehemiah của Kinh thánh.
Đế quốc Achaemenes dưới triều đại của Darius kiểm soát phân số dân số thế giới lớn nhất, không có bất kỳ đế quốc nào trong lịch sử cai trị số phần trăm dân số nhiều hơn Đế quốc Achaemenes. Dựa trên ước tính nhân khẩu học lịch sử, Darius I cai trị khoảng 50 triệu người, hoặc ít nhất là 44% dân số thế giới lúc bấy giờ.
Từ nguyên
là là cách viết trong tiếng La Tinh của từ Dareîos () trong tiếng Hy Lạp và bắt nguồn từ từ gốc Dārayava(h)uš ( trong tiếng Ba Tư cổ; dryhwš trong tiếng Aram), cách viết tắt của từ Dārayava(h)uš (). Cách viết dài hơn cũng đã được coi là đã được phản ánh trong từ Da-ri-(y)a-ma-u-iš trong tiếng Elam, Da-(a-)ri-ia-(a-)muš trong tiếng Babylon, drywhwš trong tiếng Aram và có lẽ là cách viết dài Dareiaîos () trong tiếng Hy Lạp. Tên gọi này là một chủ ngữ mang nghĩa "anh ta đang nắm giữ chắc tánh tốt", phần đầu dāraya có nghĩa là "người nắm giữ" và phần thứ hai "vau" có nghĩa là "lòng tốt, tính tốt".
Tuổi trẻ
Darius là con trưởng trong số năm người con trai của Hystaspes và Rhodugune vào năm 550 TCN. Hystaspes là một nhân vật "tai to mặt lớn" tại Persis, quê hương của người Ba Tư. Các dòng văn tự triều Darius I ghi nhận rằng Hystaspes là quan Tổng trấn xứ Đại Hạ năm 522 trước Công nguyên. Theo nhà sử học Herodotus, Hystaspes là quan Tổng trấn đất Persis, cho dầu hầu hết các nhà sử học cho rằng điều đó là sai. Cũng theo Herodotos (III.139), Darius, trước khi chiếm đoạt ngôi báu thì "chẳng có vai vế gì vào thời điểm đó", và trở thành lính giáo (doryphoros) trong chiến dịch phạt Ai Cập (528 - 525 trước Công Nguyên) của Đại Vương Ba Tư lúc bấy giờ là Cambyses II. Hystaspes là một võ tướng trong Triều đình Cyrus Đại Đế, có thế lực mạnh.
Vào năm 530 trước Công Nguyên, theo sử cũ của Herodotos, vua Cyrus Đại Đế thân chinh xuất binh thảo phạt người Massagetea vị Đại Vương này chiêm bao thấy Darius có hai cánh và đứng ở giao điểm giữ châu Âu và châu Á (theo cách hiểu thời đó là toàn thể thế gian). Khi Cyrus Đại Đế bừng tỉnh, Đại Vương xem đây là điềm báo về mối hiểm họa sau này của mình, hiểu là Darius I sẽ lên thống trị toàn cõi hồng trần. Tuy nhiên, do Cyrus Đại Đế đã chọn Cambyses làm người kế ngôi, chứ không phải là Darius, cho nên Đại Vương lo sợ rằng Darius đang âm mưu phản nghịch, với hàng đống tham vọng chiếm đầy đầu óc của ông. Nghĩ là làm, Cyrus Đại Đế triệu Hystaspes đến và phán hỏi: :"Ta tin chắc rằng, điều ấy báo hiệu con trai của Khanh đang lập nên những mưu đồ phản nghịch và đầy chất tham vọng. Do đó, Khanh nên về nước và khi có chuyện cấp thiết thì bắt giữ ngay hắn lại. Coi sóc chặt chẽ hắn, và hãy để cho hắn sẵn sàng bẩm tấu về hành vi của hắn một khi Ta trở về."
Tướng quân Hystaspes kính bẩm: để giao chiến với người Scythia, nhưng thua trận và rút lui.
Năm 512 TCN, Darius cho làm loại đồng tiền vàng Daric.
Darius đã đưa bờ cõi của đế quốc tới tận bắc Ấn Độ về phía Đông và tới Thổ Nhĩ Kỳ về phía Tây.
Bấy giờ, đế quốc Ba Tư Achaemenid đã trở thành một đế quốc rộng lớn nhất thế giới (7.500.000 km²), được chia làm 20 tỉnh cho dễ cai trị. Mỗi tỉnh do một quan satrap (tỉnh trưởng) trị vì.
Năm 500 TCN, Ông mở ra một chương trình xây dựng đầy tham vọng. Nhất là một quốc lộ hoàng gia dài 1.500 dặm (2400 km) từ Susa (Iran ngày nay) tới Ephesus tại Thổ Nhĩ Kỳ. Đế quốc Ba Tư lên tới đỉnh cao hoàng kim. Đế quốc này cũng trở thành nước lớn nhất thế giới thời đó, rộng 7.500.000 km².
Năm 499 TCN, Những khu định ở Thổ Nhĩ Kỳ làm loạn. Họ được hậu thuẫn bởi các thành bang lớn của Hy Lạp cổ đại, trong đó có cả thành Athena. Từ đó, chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư nổ ra. trái|nhỏ|Hình Darius trên các bình gốm [[Hy Lạp cổ đại]] Năm 490 TCN, Darius cố gắng ổn định lại trật tự, ông phái 80 vạn quân đi chinh phạt thành Athena. Đội quân của ông tiêu diệt được xứ Eretria, xong lại đại bại tại trận Marathon. Từ đó, cuộc chiến Hy Lạp-Ba Tư kết thúc, với kế quả là Hy Lạp thắng, Ba Tư giảm bớt phần nào quyền lực, dù vẫn không mất địa vị quyền lực của một đế quốc rộng lớn, giàu có và hùng mạnh chưa từng thấy.
Năm 485 TCN, Darius băng hà. Ông ở ngôi được 36 năm, hưởng thọ 64 tuổi và được chôn cất ở thành phố Persepolis. Ngai vàng Ba Tư đã được truyền cho một người con trai của ông là Xerxes I - con trưởng của hoàng hậu Atossa.
Các chiến dịch quân sự
Xâm lược thung lũng sông Ấn
Khởi nghĩa Babylon
Chiến dịch bình định người Scythia ở châu Âu
Xâm lược Hy Lạp
Gia quyến
Con cái
Con của con gái Gobryas
- Artabazanes
- Ariabignes
- Một người con trai vô danh Con của Atossa
- Xerxes
- Achaemenes
- Hystaspes
- Masistes
- Mandane (thỉnh thoảng bị nhầm lẫn với Sandauce Con của Artystone
- Arsames
- Gobryas
- Artazostre (phu nhân của tướng Mardonius) Con của Parmys, con gái Smerdis
- Ariomardus Con của Phratagune
- Abrocomes
- Hyperanthes Con của Phaedymia, con gái Otanes'
Không rõ
Con của những cung phi vô danh
- Ariamenes (thỉnh thoảng bị nhầm lẫn với một trong ba người con trai của con gái Gobryas)
- Arsamenes
- Ba công chúa vô danh
- Sandauce
- Ištin
- Pandušašša
Cái chết
Cai trị
Cấu tạo
Kinh tế
Tôn giáo
Xây dựng
