✨Chiến khu Đ
nhỏ|phải|Huy hiệu Chiến khu Đ, với khẩu hiệu "Miền Đông gian lao mà anh dũng" Chiến khu Đ là một căn cứ quân sự ở miền Đông Nam Bộ của Mặt trận Việt Minh và Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương, và của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến khu được thành lập vào tháng 2 năm 1946, bao gồm 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Tân, Lạc An (nay thuộc huyện Tân Uyên, Bình Dương). Cuộc kháng chiến phát triển, Chiến khu Đ ngày càng mở rộng lên vùng rừng núi hiểm trở từ biên giới Việt Nam-Campuchia đến gần sát các thành phố Sài Gòn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Là căn cứ của cơ quan chỉ đạo kháng chiến miền Nam. Chiến khu Đ một thời được mệnh danh là "vùng đất chết".
Hoàn cảnh hình thành
Chiến khu Đ được xây dựng vào cuối tháng 2 năm 1946. Khi thực dân Pháp chiếm đóng được quận lỵ Tân Uyên, thành lập chi khu. Tổng hành dinh Khu 7 và lực lượng vũ trang Biên Hòa, Thủ Dầu Một rút sâu vào rừng. Công tác xây dựng căn cứ được đặt ra một cách cấp thiết tại Hội nghị bất thường của Khu bộ khu 7 ở Lạc An. Được hội nghị chấp thuận, việc xây dựng căn cứ được triển khai có hệ thống, các cơ quan, đơn vị, công xưởng v.v. phân chia đóng từng khu vực.
Ý nghĩa tên gọi
nhỏ|phải|Đường vào chiến khu D từ ngả Bình Phước Nhiều khu vực Nam Bộ của Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương mang mật danh A, B, C, D: A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu bộ đội thường trực đóng ở Ông Đội, D là khu Tổng hành dinh khu 7 đóng ở hố Ngãi Hoang. Từ đó, chiến khu Đ trở thành căn cứ địa của chiến khu 7 – một tổ chức hành chính – quân sự của các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và thành phố Sài Gòn, do Trung tướng Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng và Trần Xuân Độ làm Chính ủy. Ban đầu, Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ của khu. Dần về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả vùng chiến khu rộng lớn ngày càng phát triển ở miền Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng chữ Đ ở đây mang ý nghĩa là "đỏ", hàm ý là vùng chiến khu cách mạng kiên cường, tập trung những cơ quan đầu não kháng chiến quan trọng, một "địa chỉ Đỏ" của cả nước. Hoặc chữ Đ là viết tắt địa danh Đất Cuốc, nơi thi tướng Huỳnh Văn Nghệ khởi cứ đầu tiên. Hoặc chữ Đ là viết tắt chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông, chiến khu Đầu tiên...
Nhận định
Chiến khu Đ được coi là trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời và phát triển của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ như tiểu đoàn 800, trung đoàn 762, sư đoàn 9, sư đoàn 5.
Theo nhà nước Việt Nam, về phương diện chính trị, tinh thần, Chiến khu Đ tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của dân Việt, là nguồn hy vọng, là niềm tin của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và người dân trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.
Trong văn học-nghệ thuật
nhỏ|phải|Biểu tượng Chiến khu Đ nhỏ|phải|Chén bát của quân du kích ở chiến khu D nhỏ|phải|Tượng phục dựng khoai lang trên bếp Hoàng Cầm ở Chiến khu D nhỏ|phải|Tượng phục dựng bắp chuối trên bếp Hoàng Cầm ở Chiến khu D Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ đã sáng tác nhiều bài thơ về chiến khu Đ, sau đây là một số tác phẩm tiêu biểu của ông: :''Sau Nam Kỳ khởi nghĩa :''Trước cách mạng mùa thu :''Có một nhóm đồng chí :''Ra thành lập chiến khu :''Ngồi quanh một ấm chè :''Thảo luận suốt trưa hè :''Tên chiến khu bất khuất :''Đồng Nai hay Đất Cuốc :''Rốt cuộc Chiến khu Đ :''Đã bao mùa lá vàng rơi từ ấy :Chiến khu Đ vẫn đỏ máu quân thù. Đoạn thơ trên đề cập đến thời điểm ra đời của Chiến khu Đ; đồng thời cắt nghĩa xuất xứ tên gọi "Đ" của chiến khu.
Vào hạ tuần tháng 10 năm 1945, quân đội Pháp bắt đầu tấn công quyết liệt, trong điều kiện tương quan lực lượng quá chênh lệch, các lực lượng kháng chiến để lại một bộ phận nhỏ hoạt động ở vùng ngoại ô, còn lại rút ra vùng ngoài củng cố xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Hàng ngàn công nhân, trí thức, học sinh rời thành đi kháng chiến. Chiến khu Đ trở thành nơi tập hợp lực lượng trong vùng. Sự kiện lịch sử này được nhắc tới trong bài thơ "Ngày hội" của Huỳnh Văn Nghệ: :''Biên Hòa đã mất :''Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao :''Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiến hào :''Đêm tập một hai vang trường Đất Cuốc... :''Anh Nguyễn Bình cũng đã về đây :''Xem địa thế sông dài rừng thẳm :''Tình quân dân đầm ấm :''Anh xuống ngựa buộc cương... :''Lạc An bỗng tưng bừng ngày hội :''Kéo về đây đến bốn, năm chi đội :''Kim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa :''Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưa :Bỗng lớn lên như Phù Đổng. Với ưu thế về quân đội, trang bị, vũ khí, hỏa lực, Pháp liên tục đánh chiếm các vùng của Việt Nam. Tân Uyên và nhiều vùng phụ cận rơi vào tay quân Pháp: :''Rồi từ đó Tân Uyên thành chiến địa :''Máu quân thù tiếp tục chảy không thôi :''Dòng sông xanh đã nhuộm màu máu tía :Thuyền bến xưa phiêu bạt bốn phương trời. (bài Mất Tân Uyên)
Sau khi hòa bình lập lại, Việt Nam thống nhất, Huỳnh Văn Nghệ trở về chiến khu Đ và sáng tác những vần thơ nhớ một thời kháng chiến bất khuất, hoặc xót xa với cảnh rừng bị quân đội Pháp, quân đội Hoa Kỳ tàn phá đến hoang trụi. :''Đất rừng còn nhức nhối :''Hố bom khoét thân mình :''Cây dầu còn rỉ máu :''Vết đạn vẫn chưa lành... :''Dân mình còn gian khổ :''Hòa bình chưa ăn mừng :''Lo thiếu gạo thiếu gỗ :''Nhưng phải bảo vệ rừng :''Ngày mai rừng tươi lại :''Cho người đỡ nắng mưa :''Thêm lúa thơm gỗ quý :Suối trong veo bốn mùa. (bài Cây thông già và anh thợ rừng)
