✨Chi Ngỗng
Chi Ngỗng (danh pháp khoa học: Anser) bao gồm các loài ngỗng xám và ngỗng trắng. Nó thuộc về phân họ chứa các loài ngỗng thật sự và thiên nga, với tên khoa học gọi là Anserinae. Chi này có sự phân bố ở Bắc bán cầu, với ít nhất 1 loài sinh sản tại bất kỳ môi trường sinh sống ẩm ướt và thưa cây cối cận Bắc cực và ôn đới lạnh của Bắc bán cầu về mùa hè. Một vài loài còn sinh sản xa hơn về phía nam, đạt tới vùng ôn đới ấm. Chúng chủ yếu di trú về phía nam khi mùa đông tới, thông thường là tới các khu vực vùng ôn đới có đường đẳng nhiệt trong tháng 1 nằm trong khoảng từ 0 °C (32 °F) tới 5 °C (41 °F). Tên gọi của chúng là ngỗng hay nhạn, với tên gọi nhạn (雁) là sự vay mượn từ tiếng Trung, đặc biệt sử dụng nhiều trong văn chương.
Chi này hiện nay được coi là chứa 10 loài còn sinh tồn. Loài có kích thước lớn nhất là ngỗng xám cân nặng 2,5-4,1 kg (5,5-9 pao) và nhỏ nhất là ngỗng Ross chỉ nặng 1,2-1,6 kg. Tất cả các loài có chân màu hồng hay da cam và mỏ màu hồng, da cam hay đen. Chúng có lông bụng và mặt trên lông đuôi màu trắng, một số loài có các vệt màu trắng trên đầu. Cổ, thân, cánh có màu xám hay trắng, với lông bay chính (và thông thường cả lông bay phụ) màu đen hay ánh đen. Các loài ngỗng "đen" có quan hệ họ hàng gần, thuộc chi Branta, khác chúng ở chỗ có chân đen và bộ lông nói chung sẫm màu hơn.
Hệ thống, phân loại và tiến hóa
Các loài còn sinh tồn
- Ngỗng thiên nga hay nguyên nga, hồng nhạn, đại nhạn: Anser cygnoides – đôi khi tách ra thành chi Cygnopsis
- Ngỗng đậu hay hồng, mạch nga, đậu nhạn, đại nhạn: Anser fabalis. Năm 2007, AOU tách ra thành 2 loài khác biệt là: Ngỗng đậu taiga: Anser (fabalis) fabalis hay Anser fabalis nghĩa hẹp (sensu stricto). Ngỗng đậu tundra: Anser (fabalis) serrirostris hay Anser serrirostris.
- Ngỗng chân hồng: Anser brachyrhynchus
- Ngỗng ngực trắng: Anser albifrons ** Ngỗng ngực trắng Greenland: Anser (albifrons) flavirostris
- Ngỗng ngực trắng nhỏ: Anser erythropus
- Ngỗng xám hay ngỗng xám, hôi nhạn, sa nga, sa nhạn: Anser anser
- Ngỗng Ấn Độ hay ngỗng đầu vạch kẻ, ban đầu nhạn, bạch đầu nhạn: Anser indicus thì Hiệp hội các nhà điểu học Hoa Kỳ (AOU) và IUCN lại tách chúng riêng ra.
Một vài tác giả lại coi một số phân loài như là các loài tách biệt (đáng chú ý là ngỗng đậu tundra) hay như là các "loài" mà có lẽ sẽ tách ra trong tương lai (đáng chú ý là ngỗng ngực trắng Greenland).
Hóa thạch
Hàng loạt các loài hóa thạch đã được định vị vào chi này. Do các loài ngỗng thật sự gần như không thể gán bằng cách nghiên cứu xương vào chi này nên điều đó cần phải xem xét với sự cẩn trọng. Có thể thừa nhận với độ chắc chắn hạn chế rằng các hóa thạch ở châu Âu từ các khu vực đã biết trong lục địa là thuộc về chi Anser. Do loài liên quan tới ngỗng Canada đã được mô tả từ Hậu Miocen trở đi tại Bắc Mỹ, đôi khi là từ cùng các vị trí như loài ngỗng xám (giả định), nó đưa ra sự nghi vấn lớn về sự chính xác của việc gán theo di truyền đối với vị trí của hóa thạch "ngỗng" giả định ở Bắc Mỹ. Loài từ Tiền Pliocen Branta howardae là một trong các trường hợp trong đó các nghi vấn được thể hiện về sự gán ghép theo di truyền của nó. Tương tự, Heterochen = Anser pratensis dường như khác biệt rõ rệt từ các loài khác trong chi Anser và có lẽ nên đặt trong chi khác; nói cách khác, nó có thể là ví dụ duy nhất về ngỗng xám đã thích nghi với việc đậu trên cây. Short (1970) Với niên đại của nó thì dường như nó thuộc về chi đang có loài sinh tồn và địa sinh học chỉ ra rằng Branta cũng có thể là một ứng viên khác.
?Anser scaldii (Hậu Miocen ở Antwerp, Bỉ) có thể là vịt khoang.
Sinh thái học
trái|nhỏ|Một gia đình ngỗng xám gặm cỏ ven hồ nước Các loài ngỗng chủ yếu là động vật ăn cỏ ở các vùng đất lầy lội, với khả năng bơi lội tốt nhờ các chân màng, mặc dù chúng cũng tích cực gặm cỏ tại các vùng đất khô. Khi kiếm ăn trong nước, chúng thường lặn cắm đầu xuống để tìm kiếm các loại cỏ mọc ngầm dưới nước.) ăn các loại cây trồng và gốc rạ.
Quan hệ với con người và tình trạng bảo tồn
Hai loài trong chi này có tầm quan trọng thương mại lớn, do chúng đã được thuần hóa để trở thành ngỗng nhà. Đó là ngỗng nhà châu Âu được thuần hóa từ ngỗng xám và ngỗng nhà châu Á cùng một vài giống ngỗng nhà châu Phi có ngồn gốc từ ngỗng thiên nga.
Phần lớn các loài ngỗng hoang bị săn bắn ở các phạm vi và mức độ khác nhau; tại một số khu vực, một vài quần thể là nguy cấp do săn bắn thái quá. Đáng chú ý có ngỗng ngực trắng nhỏ được IUCN liệt kê như là dễ thương tổn trong cả vùng phân bố của nó. Do săn bắn thái quá và do sự phá hủy môi trường sống quá mạnh nên quần thể ngỗng thiên nga hiện nay đang trên đà tuyệt chủng và nó được liệt kê như là loài nguy cấp.
Các loài ngỗng khác được hưởng lợi từ sự giảm xuống của việc săn bắn kể từ cuối thế kỷ 19/đầu thế kỷ 20, với các loài ở Tây Âu và Bắc Mỹ có sự gia tăng số lượng đáng kể. Trong một số trường hợp, điều này mâu thuẫn với lợi ích của nông dân khi các bầy lớn ăn trụi các loại cây trồng vào mùa đông.
Tham khảo và ghi chú
Ngỗng, chi
