✨Cannon (lớp tàu hộ tống khu trục)
Lớp tàu hộ tống khu trục _Cannon_ là một lớp tàu hộ tống khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ, chủ yếu được sử dụng trong vai trò hộ tống và chiến tranh chống ngầm trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc dẫn đầu của lớp, , được cho nhập biên chế vào ngày 26 tháng 9 năm 1943 tại Wilmington, Delaware. Trong tổng số 116 chiếc được đặt hàng, 44 chiếc đã bị hủy bỏ và sáu chiếc được cho nhập biên chế trực tiếp cùng Hải quân Pháp Tự do. Trong chiến tranh, tàu hộ tống khu trục thường tháp tùng để bảo vệ các đoàn tàu buôn hay tàu vận tải các loại băng qua các vùng biển bị tàu ngầm hay máy bay đối phương uy hiếp.
Sau khi chiếc BRP Rajah Humabon (PS-11) của Hải quân Philippines được cho xuất biên chế vào tháng 3 năm 2018, chiếc HTMS Pin Klao (DE-413) của Hải quân Hoàng gia Thái Lan trở thành chiếc duy nhất của lớp còn hoạt động.
Đặc điểm thiết kế
Lớp Cannon có thiết kế hầu như tương tự với lớp Buckley dẫn trước. Khác biệt chủ yếu so với lớp Buckley là ở hệ thống động lực, khi nó quay trở lại cấu hình động cơ diesel-điện tương tự như thiết kế lớp tàu hộ tống khu trục đầu tiên Evarts. Cấu hình này còn được gọi là Kiểu DET (diesel electric tandem), khi các động cơ diesel đặt nối tiếp dẫn động máy phát điện, và điện năng sẽ cung cấp cho động cơ quay trục chân vịt cho con tàu. Động cơ diesel có ưu thế về hiệu suất sử dụng nhiên liệu, giúp cho lớp Cannon cải thiện được tầm xa hoạt động, nhưng đánh đổi lấy tốc độ chậm hơn.
Vũ khí trang bị bao gồm ba khẩu pháo lưỡng dụng /50-caliber trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả bom chìm. Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 . Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 201 thủy thủ.
Chuyển giao trong Thế chiến II
Pháp Tự do
- như là chiếc Sénégalais
- như là chiếc Algérien
- như là chiếc Tunisien
- như là chiếc Marocain
- như là chiếc Hova
- như là chiếc Somali
Chuyển giao cho Brazil
- như là chiếc Babitonga
- như là chiếc Baependi
- như là chiếc Benevente
- như là chiếc Beberibe
- như là chiếc Bocaina
- như là chiếc Bauru - hiện là tàu bảo tàng tại Rio de Janeiro
- như là chiếc Bertioga
- như là chiếc Bracui
Chuyển giao sau Thế chiến II
Chuyển giao cho Pháp
- như là chiếc Malgache (F724); phục vụ 1952-1969
- như là chiếc Touareg (F721); phục vụ 1950-1960
- như là chiếc Soudanais (F722); phục vụ 1950-1959
- như là chiếc Berbère (F723); phục vụ 1952-1960
- như là chiếc Kabyle (F718); phục vụ 1950-1959
- như là chiếc Arabe (F717); phục vụ 1950-1968
- như là chiếc Bambara (F719); phục vụ 1950-1959
- như là chiếc Sakalave (F720); phục vụ 1950-1960
Chuyển giao cho Hy Lạp
- như là chiếc Leon; phục vụ 1951–1992
- như là chiếc Aetos; phục vụ 1951–1991; hiện là tàu bảo tàng tại Albany, New York
- như là chiếc Ierax ; phục vụ 1951–1991
- như là chiếc Panthir; phục vụ 1951–1992
Chuyển giao cho Ý
- như là chiếc Andromeda (F 592) 1951; tháo dỡ 1972
- như là chiếc Aldebaran (F 590) 1951; tháo dỡ 1976
- như là chiếc Altair (F 591) 1951; đánh chìm như mục tiêu 1971
Chuyển giao cho Nhật Bản
- như là chiếc Asahi (DE-262) 1955–75 (chuyển cho Philippines sau đó)
- như là chiếc Hatsuhi (DE-263) 1955–75 (chuyển cho Philippines sau đó)
Chuyển giao cho Hà Lan
- như là chiếc Van Amstel (F806) 1950
- như là chiếc Bitter (F807) 1950
- như là chiếc Van Ewijck (F808) 1950
- như là chiếc Dubois (F809) 1950
- như là chiếc Zeeuw (F810) 1950
- như là chiếc van Zijll (F811) 1950
Chuyển giao cho Peru
- như là chiếc BAP Castilla; phục vụ 1951–1979
- như là chiếc BAP Aguirre; phục vụ 1951–1974
- như là chiếc BAP Rodríguez; phục vụ 1951–1979
Chuyển giao cho Philippines
- như là chiếc BRP Datu Sikatuna (PF-5); tháo dỡ 1989
- như là chiếc BRP Rajah Humabon (PF-11); ngừng hoạt động 2018
- như là chiếc BRP Datu Kalantiaw (PS-76); đắm trong một cơn bão 1981
-
- tháo dỡ làm nguồn phụ tùng
-
- tháo dỡ làm nguồn phụ tùng
Chuyển giao cho Hàn Quốc
- như là chiếc ROKN Kyong Ki (F-71); phục vụ 1956–1977 (chuyển cho Philippines sau đó)
- như là chiếc ROKN Kang Won (F-72); phục vụ 1956–1977 (chuyển cho Philippines sau đó)
Chuyển giao cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)
- như là chiếc ROCN Taihe (太和)
- như là chiếc ROCN Taicang (太倉)
- như là chiếc ROCN Taihu (太湖)
- như là chiếc ROCN Taizhao (太昭)
Chuyển giao cho Thái Lan
- như là chiếc HTMS Pin Klao (413)
Chuyển giao cho Uruguay
- như là chiếc Uruguay (DE-1); phục vụ 1952–1990
- như là chiếc Artigas (DE-2); phục vụ 1952–1988
Những chiếc trong lớp
