✨Bùi Tuấn (nhà Nguyễn)
Bùi Tuấn (1808-1872) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Năm sinh và gia thế
Theo gia phả họ Bùi ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội do tổ tiên họ Bùi để lại cùng với các tài liệu sau:
- Đại Nam chính biên liệt truyện
- Người Hà Tây trong làng khoa bảng (Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, 2001
- Huế, vài nét cố đô (Hội Nhà văn Huế, 1990)
- Báo Quan hệ quốc tế (số 31 tháng 5 năm 1992)
- Báo Quân đội Nhân dân (số 11071 ngày 31 tháng 3 năm 1992)
- Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (sô 49, tháng 1 năm 1967
- Các tài liệu khác thì Bùi Tuấn sinh năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ chín
Tổ tiên họ Bùi ở Liên Bạt, theo gia phả, trước Bùi Tuấn mười đời vốn là nông dân, sinh sống đạm bạc và cần kiệm. Đến đời thứ mười là Bùi Đình Nhuận tự là Đoan Khiết và cụ bà là Tư Tường sinh ra Bùi Tuấn.
Cuộc đời
Thời trẻ
Từ tuổi ấu thơ, Bùi Tuấn đã chăm chỉ miệt mài đèn sách. Ông thường mang sách ra chùa làng học nhờ cho yên tĩnh.
Trước tình hình đó, Bùi Tuấn đã dân sớ tấu vua:
Tự Đức đồng ý. Sáng kiến trên đã đỡ cho 8000 dân công Nam Định, Hải Dương, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh đỡ vất vả. Đó là một hành động vì nước thương dân của Bùi Tuấn.
Đánh dẹp
Đầu mục thổ phỉ Trung Quốc tên Ngô Côn xuất đồ đảng tiến xuống sông Hồng, vây thành Bắc Ninh. Bùi Tuấn đã chỉ huy quân đánh trả. Khi thám báo của ta phát hiện chỗ đóng quân của Ngô Côn, Bùi Tuấn đã cho thần công (dân gian gọi là ông Ầm) bắn vào cho giặc đóng. Ngô Côn trúng đạn chết tại trận. Đồ đảng tan rã rút về biên giới Việt-Trung. "Quân ta bắt được hai tướng giặc là Phó đề đốc Đỗ Chuyên và Nguyễn Nhiếp đem xử tại trân để uy hiếp địch" (Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 21 tháng 3 năm 1992).
Qua đời
Tháng 2 năm Nhâm Thân (1872) do lao tâm trí lực, ở tuổi 64, Bùi Tuấn xin cáo quan về hưu. Triều đình Huế còn do dự thì 1 tháng sau ông qua đời vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, tức là ngày 8 tháng 4 tại nhiệm sở.
Nghe tin ông mất, vua Tự Đức và các quan trong triều đình xúc động, thương tiếc. Bản dụ của Tự Đức có viết:
Theo sắc dụ của vua Tự Đức, linh cữu của Bùi Tuấn được đưa về quâ hương ông ở Liên Bạt, lúc đó thuộc tỉnh Hà Nôi. Mộ ông được đặt tại cánh đồng ngô. So với các lăng mộ thời trước, mộ vị Tổng đốc được truy tặng Thái tử Thiên bảo này thật giản dị: Không có voi chầu, ngựa phục, lính canh,... Phần mộ chỉ xây gạch cao 0,4 mét so với mặt ruộng. Mộ ông chỉ khác mộ dân thường cách đó không xa là phía trước mộ cá nhà bia. Nhà bia xây vuông 4 mét*4 mét, cao 6 mét băng gạch nung, cuốn vòm hai tần tám mái. Phần cổ diêm nhà bia khác chữ Hán ca ngợi thân thế, sự nghiệp của Bùi Tuấn.
Nghi vấn
Theo Đại Nam liệt truyện, không có ghi chép nào của các sử quan triều Nguyễn chép ông với các cuộc khởi nghĩa nông dân.
Theo nhà sử học Hoa Bằng trong chuyện luận "Chống nhà nước phong kiến dưới triều Nguyễn", đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử (tháng 1 năm 1967) thì ở Thái Nguyên có Lê Văn Thành và Doãn Văn Đắc khởi binh. Ở Bắc Ninh có Nguyễn Văn và Lê Nghiêm cử sự. Tiếp đó có bọn giặc Tàu Tam Đường và giặc Tàu Hoàng Sùng Anh, bọn chúng đều khởi sự vào năm Tân Hợi (1851), Tân Dậu (1861) và Ất Sửu (1865) là những năm cũng có các cuộc khởi nghĩa trên. Lúc này Bùi Tuần vẫn giữ vị trí quan văn ở triều đình và vừa đến Ninh-Thái nhận chức.
Các cuộc khởi nghĩa của Cai Vàng (1862-1864) nổi lên rất ác liệt ở vùng núi rừng Yên Thế, đánh sang Bắc Ninh và Tuyên Quang. Triều đình phải cử nhiều viên tướng đến đàn áp. Đó là Trương Quốc Dụng, Lê Xuân. Theo Hoa Bằng, trận cuối cùng của đội quân Cai Vàng thất bại dưới tay của Đội Hến. Đó là tháng 8 năm Quý Hợi (1863). Vợ của Cai Vàng tiếp tục lãng đạo nghĩa quân thêm một năm, rồi khởi nghĩa tan rã. Đó là lúc Bùi Tuấn đến nhận chức quyền chưởng Ninh-Thái Tổng đốc quan phòng. Ông không tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa này.
Ca ngợi
Đại Nam chính biên liệt truyện
Trong Nhị thập và Tam thập tam quyển của bộ sử này có viết:
Bài văn bia ở quê nhà
Bài văn bia này do Dương Lâm và Lê Đăng Nẫm. Một đoạn được viết như sau:
Biên niên sử
Con cháu
Bùi Tuấn là người khai khoa của dòng họ Bùi ở Liên Bạt. Con cháu ông nối tiếp nghiệp Nho có.
