✨Vương tộc Glücksburg
Vương tộc Glücksburg (tiếng Đan Mạch Slesvig-Holsten-Sønderborg-Lyksborg, cũng viết Glücksborg), Glücksburg là từ viết rút gọn của Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg, là tên của một nhánh gia đình thuộc Nhà Oldenburg, có nguồn gốc từ Đức, các thành viên của vương tộc tộc này đã cai trị nhiều thời điểm khác nhau ở Anh, Đan Mạch, Na Uy, Hy Lạp và một số nhà nước thuộc phía Bắc của Đế quốc La Mã Thần thánh và Đế quốc Đức.
Nữ vương Margrethe II của Đan Mạch, Vua Harald V của Na Uy, cựu vương Konstantine II của Hy Lạp, cựu Vương hậu Anne-Marie của Hy Lạp, Vương hậu Sofía của Tây Ban Nha và Vua Charles III của Anh đều là những thành viên thuộc Vương tộc Glücksburg.
Tên của vương tộc được đặt theo tên đô thị Glücksburg thuộc miền Bắc nước Đức ngày nay. Nó là một nhánh của Nhà Oldenburg. Các thành viên của vương tộc này là hậu duệ của Bá tước Christian Oldenburg, người đã trở thành vua của Đan Mạch năm 1448 và vua của Na Uy trong năm 1450. Tuy nhiên nhà Oldenburg và cũng như Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg đã tuyệt tự dòng nam vào năm 1863 và 1931, do đó Nhà Glücksburg bây giờ là nhánh còn lại duy nhất của Nhà Oldenburg.
Lịch sử
Gia tộc này gọi mình là Glücksburg, theo tên của một thị trấn nhỏ ven biển ở Công quốc Schleswig, nơi này có một cái vịnh hẹp tên là Flensburg, nó tạo thành một phần biên giới giữa Đức và Đan Mạch. Chiều dài của nó là từ 40 đến 50 km, tùy thuộc vào nơi nó được coi là bắt đầu. Frederick gắn tên lãnh thổ vào tước hiệu công tước mà ông đã nắm giữ, thay cho "Beck" (thực tế là gia đình có bất động sản được bán vào năm 1745).]]
Hoàng tử Christian của Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg, con trai thứ tư của Công tước Friedrich của Glücksburg, được Nghị định thư London năm 1852 thừa nhận là người kế vị của Vua Frederik VII của Đan Mạch. Ông trở thành Vua Đan Mạch với vương vị là Christian IX vào ngày 15 tháng 11 năm 1863.
Hy Lạp
Năm 1863, Hoàng tử Wilhelm của Đan Mạch được bầu làm Vua của Hellenes theo sự tiến cử của các Cường quốc Châu Âu. Ông là con trai thứ 2 của Vua Christian IX của Đan Mạch. Wilhelm lên ngôi vua với vương hiệu Georgios I của Hy Lạp.
thumb|Huy hiệu của Vua của người Hellenes
thumb|right|[[Xu bạc: 30 drachma năm 1963, kỷ niệm trăm năm của Nhà Glücksburg trị vì Hy Lạp. Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống: Paul, George II, Alexander, Constantine I và George I.]]
Chế độ quân chủ lập hiến của Hy Lạp đã bị một Chính phủ quân quản soán ngôi trong một cuộc đảo chính vào năm 1967 và gia đình hoàng gia phải sống lưu vong. Sau sự sụp đổ của chế độ độc tài quân sự vào năm 1974, 69,18% số phiếu được ghi nhận trong cuộc trưng cầu dân ý cộng hòa chống lại sự phục hồi của chế độ quân chủ.
Na Uy
thumb|Vương huy của Vua Na Uy
Năm 1905, Vương tử Carl của Đan Mạch trở thành quốc vương độc lập đầu tiên của Na Uy sau 518 năm, lấy tên là Haakon VII. Cha của ông là Vua Frederick VIII của Đan Mạch, và một trong những người chú của ông là Vua Georgios I của Hy Lạp.
Người thừa kế rõ ràng là Thái tử Haakon của Na Uy (sinh năm 1973). Xem thêm tại Danh sách kế vị ngai vàng hoàng gia Na Uy.
Iceland
thumb|[[Vương quốc Iceland]]
Năm 1918, Iceland được nâng từ một tỉnh tự trị của Đan Mạch thành Vương quốc Iceland. Christian X của Đan Mạch sau đó là Vua của Đan Mạch và Iceland cho đến năm 1944, khi Iceland giải thể liên minh cá nhân giữa hai quốc gia.
Người thừa kế rõ ràng là con trai của ông Frederik IX của Đan Mạch (1899–1972).
Vương quốc Anh
thumb|Huy hiệu của Thân vương xứ Wales
Năm 1947, Vương tôn Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch (người đã từ bỏ các tước vị của mình và lấy họ là Mountbatten khi trở thành thần dân Anh, sau cuộc hôn nhân với Vương nữ Elizabeth) và được trao tước vị Công tước xứ Edinburgh bởi cha vợ của mình, Vua George VI. Con cháu trong dòng dõi nam giới của ông với Nữ vương Elizabeth II, theo sắc lệnh, thuộc về Vương tộc Windsor và sử dụng "Mountbatten-Windsor" làm họ, khi cần thiết. Hai mươi ba vị trí đầu tiên trong hàng kế vị ngai vàng Anh do hậu duệ của Công tước nắm giữ.
Người thừa kế là William, Thân vương xứ Wales (sinh năm 1982).