✨Thủ công nghiệp Việt Nam thời Nguyễn
Thủ công nghiệp Việt Nam thời Nguyễn phản ánh hoạt động thủ công nghiệp của Việt Nam dưới triều Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
Thủ công nghiệp nhà nước
Thuyền buồm tại Vịnh Đà Nẵng|nhỏ|phải Giống các triều đại trước, thủ công nghiệp nhà nước thời Nguyễn chiếm một vị trí rất quan trọng: nó chế tạo tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,.... Chính vì vậy, nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô Huế và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long Ngoài ra, họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng... và cả máy hơi nước.. Đây là phương thức đã từng được áp dụng vào thế kỷ 18 nhưng không có điều kiện phát triển.
Thuế do triều đình áp dụng cho các mỏ khá nặng. Năm 1823, các thổ tù phải nộp 10 vạn cân đồng đỏ, còn thuế sắt là 8970 cân.
Hàng tiêu dùng thủ công
Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công của triều đình là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy người thợ luôn tìm cách trốn tránh dù chính phủ áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn. Ví dụ, thợ khéo ít dám trổ tài vì tài nghệ không có lợi mà là tai họa. Họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để bán cho dễ, những người nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý.
Đầu thế kỷ 19 có người chế được men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhưng phải bỏ trốn vì sợ bị trưng dụng làm cho triều đình. Một số khác phải giả làm đồ Trung Quốc để không bị các quan mua rẻ hay lấy không.
Thủ công nghiệp nhân dân
Các ngành nghề thủ công truyền thống tại nông thôn vẫn tiếp tục phát triển với số người làm nghề ngày càng tăng. Những nghề như gốm, sành sứ, dệt vải, lụa, làm giấy, làm vàng bạc, làm đường ăn, làm nón… phát triển ở khắp nơi.
Đặc biệt, nghề làm pháo có từ trước, thời kỳ này phát triển mạnh, với những làng nghề chuyên sản xuất các loại pháo lớn, nhỏ tại Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Bình Đà (Hà Nội).
Sự phát triển của nghề in bản gỗ tạo cơ sở cho nghề làm tranh dân gian tiếp tục phát triển như làng Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội). Tuy nhiên, nghề làm đồng hồ có từ thế kỷ 18 lại không còn.
Dù thủ công nghiệp khá phát triển nhưng phương thức sản xuất so với các thời trước nhìn chung không thay đổi. Các làng thủ công vẫn gắn liền với nghề nông như xưa, không hình thành các phường hội có quy chế hoạt động như ở Tây Âu.
Nhà Nguyễn không có chính sách khuyến khích phát triển thủ công nghiệp nhân dân. Triều đình giành độc quyền mua các loại gấm vóc, lụa là. Người thợ thủ công vừa phải đóng thuế thân vừa phải nộp thuế sản phẩm.