✨Quân đội nhà Lê trung hưng

Quân đội nhà Lê trung hưng

nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh Quân đội nhà Lê trung hưng là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều vua Lê Chiêu Thống, từ năm 1533 đến năm 1789. Giữa thời kỳ Nam Bắc triều - chiến tranh với nhà Mạc - và thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh có những thay đổi lớn trong tổ chức.

Vì sự chia cắt Đàng Ngoài – Đàng Trong kể từ năm 1600, quân đội Đàng Trong dưới quyền chúa Nguyễn được hình thành và có cơ cấu tổ chức riêng, phân biệt với quân đội Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh ở Bắc Hà. Quân đội Đàng Ngoài thực chất là quân đội nhà Lê trung hưng từ năm 1600 đến khi chính quyền Lê – Trịnh tan rã.

nhỏ|phải|Bức vẽ [[Mông Đồng của một giáo sĩ phương Tây]]

Thời Nam Bắc triều

Chính quyền Lê-Trịnh không có sơ sở vững chắc trong dân lại phải thường xuyên đương đầu với sự uy hiếp từ nhiều phía nên các chúa Trịnh đã sớm có ý thức hình thành một lực lượng quân đội thường trực đủ mạnh để tự vệ.

Thời chiến tranh với nhà Mạc, quân đội nhà Lê trung hưng tổ chức theo mô hình như thời Lê Sơ. Quân được chia làm 5 phủ và vẫn đặt chức Đô đốc phủ quân như trước, bên cạnh đó đặt dinh 5 khuông gồm: Trung khuông, Tả khuông, Hữu khuông, Tiền khuông, Hậu khuông.

Binh lính chỉ lấy từ Thanh Hóa và Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay), các đinh tráng có sẵn tên trong sổ, khi có việc mới gọi ra.

Sau khi thu phục được Thăng Long (1592), nhà Lê tiếp nhận quân 4 vệ của nhà Mạc (Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y và Kim Ngô) về hàng, cho nhập vào trong quân, tổng số quân thủy bộ có 12 vạn người: Những người lính Thanh Hóa, Nghệ An từng tham gia chiến tranh với nhà Mạc được lưu lại kinh thành Thăng Long Những binh sĩ mới tuyển thuộc 3 phủ ở Thanh Hóa (Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia) và 12 huyện ở Nghệ An (6 huyện ở phủ Đức Quang và 6 huyện ở 3 phủ Diễn Châu, Anh Đô, Hà Hoa).

Ngoài nhiệm vụ bảo vệ cung vua, phủ chúa, lực lượng này còn làm nòng cốt trong cuộc chiến với chúa Nguyễn. Do 3 phủ ở Thanh Hóa là căn cứ vững chắc từ thời Nam Bắc triều và cung cấp chủ yếu quân túc vệ nên lực lượng này còn được gọi là lính Tam phủ.

  • Ngoại binh: hay còn gọi là Nhất binh, được tuyển từ 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan cùng 4 nội trấn (Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc) có nhiệm vụ phòng thủ ở các địa phương. Hầu hết lực lượng này lấy những người tình nguyện, còn lại chỉ có tên trong binh ngạch, khi có việc mới gọi ra, thời bình ở nhà làm ruộng.

Ngoài bộ binh là lực lượng truyền thống, thủy binh được chú trọng phát triển. Đàng Ngoài có khoảng 600 chiến thuyền. Theo giáo sĩ Alexandre de Rhodes có mặt ở Đàng Ngoài: :Chúa Trịnh có nhiều đội thuyền chiến với lực lượng đông đảo; chiến thuyền dài có 24 – 40 tay chèo mỗi bên; các chiến thuyền đều có đủ vũ khí và súng ống cần cho việc giao chiến. Tàu thuyền nào cũng có 1 khẩu súng nhỡ ở mũi thuyền và 2 khẩu súng ở đuôi thuyền. Về binh lính, họ rất thành thạo sử dụng mọi vũ khí, với súng tay và súng hỏa mai, họ bắn rất thiện nghệ.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên ghi nhận thời Nam Bắc triều, quân Trịnh theo phò nhà Lê có lực lượng kỵ binh khá mạnh. Trịnh Tùng từng sử dụng 400 quân thiết kỵ làm trợ chiến để đẩy lùi cuộc xâm lấn của quân Bắc triều. Năm 1592 ông huy động tới 5000 kỵ binh nặng, trang bị giáp sắt cho cả ngựa để vây hãm Đông Kinh của nhà Mạc.

William Dampier, một nhà du hành từng đến Đàng Ngoài năm 1688 có ghi nhận là quân đội chúa Trịnh có chừng 70.000-80.000 quân thường trực, trong số đó hầu hết là bộ binh trang bị súng tay, ở kinh thành chúa có thường trực voi chiến 200 thớt, ngựa chiến 300 con, nuôi béo khỏe. Ngựa trung bình cao 140 cm đến vai, kích cỡ tương đương các nòi ngựa để cưỡi hiện đại.

Một ghi chép của người phương Tây về lực lượng quân sự Đàng Ngoài dưới thời Thanh Đô vương Trịnh Tráng cho rằng vào năm 1640 nhà chúa có dưới trướng hơn ba mươi vạn bộ binh, hai ngàn thớt voi trận và một trăm lẻ hai ngàn quân kỵ(!). Con số này đáng nghi vấn. Tuy nhiên ghi chép này cũng cho người đời sau thấy được ấn tượng của những người ngoại quốc về 1 quân đội Đại Việt hùng cường toàn diện, từ thủy binh, bộ binh đến kỵ, tượng binh.

Trưng tập

Phép tuyển lính về cơ bản giữ theo chế độ thời Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, từ năm 1660 thời Lê Thần Tông, do không tuyển được nhiều lính tốt, phát sinh tệ nạn gian dối nên chính quyền cho thay đổi cách thức rất rắc rối. Nhưng chỉ duy trì được 4 năm, tới năm 1664 thời Lê Huyền Tông lại quay về phép cũ là. Tổng số thời Lê trung hưng đã tổ chức 19 kỳ thi võ học lấy đỗ 199 tạo sĩ.

Vì phép thi cử này chỉ nặng về văn nên tới năm 1731, chúa Trịnh Giang thay đổi phép thi Bác cử, theo đó lần 1 thi bắn cung, múa siêu đao; lần 2 thi múa kiếm, cưỡi ngựa, bắn tên và lần 3 mới thi văn sách và phương pháp mưu lược nhà binh Nhưng trong Thượng Kinh Phong Vật Chí, ông cho biết thời đại ông người ta đã bãi bỏ cưỡi ngựa bắn cung, và thay bằng nội dung cưỡi ngựa bắn súng trong khoa cử.

Đãi ngộ và mặt trái

Quân thường trực Thanh Nghệ được coi trọng hơn ngoại binh. Ngoại binh chỉ là lực lượng dự trữ trong ngạch, khi có việc và quân thường trực không đủ mới gọi đến. Binh lính Tam phủ được ưu đãi, cấp ruộng đất tại làng xã cao hơn dân thường. Từ năm 1707, Trịnh Cương đặt ra lệ truy tặng tiền tuất cho binh lính tử trận.

Năm 1724, Trịnh Cương cho Thanh Hóa, Nghệ An và kinh kỳ là những vùng quan trọng được nới nhẹ tô thuế. Thanh Hóa và Nghệ An chỉ có tiền thuế điệu lá theo tứ nội trấn, còn thuế thân được miễn hết và thuế ruộng thì giảm một nửa. Tại Thăng Long thì tô thuế, thuế dung và thuế điệu đều được giảm so với tứ trấn. Đỉnh cao của nạn kiêu binh chính là vụ đảo chính giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo và phế Điện Đô vương Trịnh Cán năm 1782.

Ảnh

File:VN rifles.jpg|Súng hỏa mai mồi thừng, súng hỏa mai đá lửa, súng kíp có hạt nổ và súng săn 2 nòng. File:ThuyenchienDaiViet2.JPG|Thuyền chiến "Mông Đồng" thế kỷ 17. File:Tiger hunt.jpg|Chạm gỗ đình Hạ Hiệp thế kỷ 17. Xạ thủ hỏa mai chiến đấu song song với kỵ xạ. File:Daovietnam.JPG|Đao Việt Nam thế kỷ 18. File:Breech mug.jpg|Buồng đạn của pháo nạp hậu thế kỷ 17.