✨Nấm

Nấm

Giới Nấm (tên khoa học: Fungi) bao gồm những sinh vật nhân chuẩn dị dưỡng có thành tế bào bằng kitin (chitin). Phần lớn nấm phát triển dưới dạng các sợi đa bào được gọi là sợi nấm (hyphae) tạo nên thể sợi (mycelium), một số nấm khác lại phát triển dưới dạng đơn bào. Quá trình sinh sản (hữu tính hoặc vô tính) của nấm thường là qua bào tử, được tạo ra trên những cấu trúc đặc biệt hay thể quả. Một số loài mất khả năng tạo nên những cấu trúc sinh sản đặc biệt và nhân lên qua hình thức sinh sản sinh dưỡng.

Những đại diện tiêu biểu của nấm là nấm mốc, nấm men và nấm lớn (nấm thể quả). Giới Nấm là nhóm sinh vật đơn ngành (monophyletic) mà có nguồn gốc hoàn toàn khác biệt với những sinh vật có hình thái tương tự như nấm nhầy (myxomycetes) hay mốc nước (oomycetes). Nấm có mối quan hệ gần với động vật hơn là thực vật, cho dù thế thì môn học về nấm, hay nấm học, lại thường được xếp vào thành một nhánh của môn thực vật học.

Trên Trái Đất, đa phần các nấm đều không thể nhìn thấy được bằng mắt thường, chúng sống phần lớn ở trong đất, chất mùn, xác sinh vật chết, cộng sinh hoặc ký sinh trên cơ thể động, thực vật và nấm khác. Vi nấm đóng 1 vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, chúng phân hủy các vật chất hữu cơ và không thể thiếu được trong chu trình chuyển hóa và trao đổi vật chất. Một số loài nấm có thể nhận thấy được khi ở dạng quả thể, như nấm lớn và nấm mốc. Nấm được ứng dụng rất rộng rãi trong đời sống lẫn sản xuất. Nhiều loài được sử dụng trong công nghệ thực phẩm, sử dụng làm thức ăn hoặc trong quá trình lên men. Nấm còn được dùng để sản xuất chất kháng sinh, hoóc môn trong y học và nhiều loại enzym, ngày nay nhiều loại nấm được biết đến và sử dụng trong phòng chống nhiều loại bệnh hiểm nghèo như viêm gan, mỡ máu, đột quỵ, ung thư... Tuy vậy, nhiều loại nấm lại có chứa các chất hoạt động sinh học được gọi là mycotoxin, như ancaloit và polyketit-là những chất độc đối với động vật lẫn con người (gây buồn nôn, khó chịu, ngộ độc). Một số loại nấm được sử dụng để kích thích hoặc dùng trong các nghi lễ truyền thống với vai trò tác động lên trí tuệ và hành vi của con người. Vài loại nấm có thể gây ra các chứng bệnh cho con người và động vật, cũng như bệnh dịch cho cây trồng, mùa màng và có thể gây tác động lớn lên an ninh lương thực và kinh tế.

Sự đa dạng

Nấm phân bố trên toàn thế giới và phát triển ở nhiều dạng môi trường sống khác nhau, kể cả sa mạc, nơi tập trung nồng độ muối cao hay có bức xạ ion hóa, cũng như trầm tích biển sâu. Đa phần nấm sống ở trên cạn, nhưng một số loài sống ở môi trường nước (như Batrachochytrium dendrobatidis - ký sinh và làm suy giảm số lượng động vật lưỡng cư toàn cầu). Nấm thủy sinh còn sống ở vùng nhiệt dịch đại dương. Nấm và vi khuẩn là những sinh vật phân giải chính có vai trò quan trọng đối với các hệ sinh thái trên cạn trên toàn thế giới. Dựa theo sự theo tỉ lệ giữa số loài nấm với số loài thực vật ở trong cùng một môi trường, người ta ước tính giới Nấm có khoảng 1,5 triệu loài. Khoảng 100.000 loài nấm đã được các nhà phân loại học phát hiện và miêu tả, tuy nhiên kích cỡ thực sự của tính đa dạng của giới Nấm vẫn còn là điều bí ẩn. Đa phần nấm phát triển dưới dạng các sợi đa bào gọi là sợi nấm, cấu tạo nên thể sợi (hay khuẩn ty), trong khi những loài khác thì lại phát triển dưới dạng đơn bào. Cho đến gần đây, nhiều loại nấm đã được miêu tả dựa trên những đặc điểm hình thái, như kích cỡ và hình dạng các bào tử hay quả thể, hay dựa trên khái niệm loài sinh vật với sự trợ giúp của các công cụ phân tử, như phương pháp Dideoxy, đã gia tăng mạnh cách thức và khả năng ước tính sự đa dạng của nấm trong phạm vi các nhóm phân loại khác nhau.

Sinh thái

phải|nhỏ|upright|[[Nấm lỗ phát triển trên một cây ở Borneo]] Dù không dễ thấy, nhưng nấm lại có mặt ở tất cả các môi trường trên Trái Đất và đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái. Cùng với vi khuẩn, nấm là sinh vật phân hủy chính ở hầu hết các hệ sinh thái trên cạn (và một số là ở dưới nước), bởi vậy nên chúng cũng có vai trò quan trọng các chu trình sinh địa hóa và ở nhiều lưới thức ăn. Khi sống hoại sinh hay cộng sinh, chúng phân hủy những vật chất hữu cơ thành những phân tử vô cơ, rồi sau đó những chất này sẽ được đồng hóa ở thực vật hay những sinh vật khác.

Cộng sinh

Nấm có mối quan hệ cộng sinh với hầu hết tất cả các giới . Quan hệ của chúng có thể hỗ trợ hoặc đối nghịch nhau, hay với những nấm hội sinh thì không đem lại bất cứ lợi ích hay tác hại rõ ràng nào đối với vật chủ.

Với thực vật

nhỏ|trái|Một nấm rễ thạch nam tách từ [[Woollsia pungens]] Nấm rễ là một hình thức cộng sinh giữa thực vật và nấm, chia làm hai loại: nấm rễ trong (endomycorrhiza, tức nấm ký sinh đơn bào sống bên trong tế bào rễ cây) và nấm rễ ngoài (ectomycorrhiza, tức rễ của nấm bám dày đặc xung quanh đầu rễ cây và xâm nhập vào giữa các tế bào rễ cây). Đây là quần hợp nấm-thực vật được biết nhiều nhất và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của thực vật cũng như nhiều hệ sinh thái, hơn 90% các loài thực vật có quan hệ với nấm theo hình thức nấm rễ và phụ thuộc vào mối quan hệ này để tồn tại. Sự cộng sinh nấm rễ đã có lịch sử xa xưa, ít nhất là từ hơn 400 triệu năm về trước . Chúng thường làm tăng khả năng hấp thu các hợp chất vô cơ của thực vật, như nitrat và phosphat, từ những đất có nồng độ những nguyên tố thiết yếu thấp. Ở một số nấm rễ, thành phần nấm có thể đóng vai trò trung gian giữa thực vật với thực vật, vận chuyển carbohydrate và các chất dinh dưỡng khác. Những cộng đồng nấm rễ đó được gọi là "mạng lưới nấm rễ chung". Một số nấm có khả năng kích thích sự sinh trưởng của cây bằng cách tiết ra các hoóc môn thực vật như axít idolaxetic (IAA) .

Địa y là dạng cộng sinh giữa nấm (hầu hết các loài nấm nang và một số nấm đảm) với tảo hay vi khuẩn lam (gọi chung là đối tác quang hợp), trong đó những tế bào quang hợp được gắn vào những mô nấm . Giống với nấm rễ, những đối tác quang hợp sẽ cung cấp cacbohyđrat được tạo ra trong quá trình quang hợp, đổi lại nấm cung cấp cho chúng các chất khoáng và nước. Những chức năng của toàn bộ cơ thể địa y gần như giống hệt với một cơ thể đơn độc. Địa y là những sinh vật tiên phong và xuất hiện ở những nơi nguyên thủy như đá tảng hay nham thạch núi lửa đã nguội. Chúng có thể thích nghi cực tốt với những điều kiện khắc nghiệt như giá lạnh hay khô hạn và là những ví dụ tiêu biểu nhất của sự cộng sinh.

Với côn trùng

Nhiều côn trùng có mối quan hệ hỗ trợ với nhiều loại nấm. Vài loại kiến trồng những loài nấm thuộc bộ Nấm mỡ (Agaricales) để làm nguồn thức ăn chính, trong khi đó những loài bọ cánh cứng Ambrosia trồng nhiều loài nấm trong lớp vỏ cây mà chúng cư trú . Loài mối ở xavan châu Phi cũng được biết có khả năng trồng nấm .

Mầm bệnh và ký sinh

Bệnh đạo ôn ở [[lúa do Magnaporthe oryzae gây ra]]

Tuy vậy, nhiều loại nấm lại ký sinh trên con người, thực vật, động vật và nấm khác. Những loài nấm gây bệnh trên cây trồng có thể gây thiệt hại rộng lớn cho ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, ví dụ như nấm đạo ôn (Magnaporthe oryzae) gây bệnh cho lúa, Ophiostoma ulmiOphiostoma novo-ulmi gây ra bệnh du Hà Lan, còn Cryphonectria parasitica là nguyên nhân của bệnh thối cây dẻ. Những loài gây bệnh cho cây thuộc các chi Fusarium, Ustilago, AlternariaCochliobolus, HistoplasmaPneumocystis . Chúng có thể gây ra những bệnh ngoài da ở người như nấm chân hay hắc lào cho đến những bệnh nguy hiểm có thể gây chết người như viêm màng não (nấm Cryptococcus neoformans) hay viêm phổi. Nấm gây ra nhiều bệnh cơ hội, tức những bệnh tấn công những người bị suy giảm miễn dịch , trong đó có những người bị HIV/AIDS , ví dụ như bệnh candidiasis (nấm Candida, gây ra chứng lở miệng ở trẻ em và âm đạo phụ nữ), histoplasmosis (Histoplasma capsulatum), cryptococcosis (Cryptococcus neoformans), aspergillosis (Aspergillus), coccidioidomycosis (Coccidioides immitis hay C. posadasii), viêm phổi pneumocystis (Pneumocystis jirovecii)... và rất nhiều bệnh khác.

Có khoảng 70 loài nấm sinh bào tử là những tác nhân gây dị ứng. Chúng có thể là nấm mốc trong nhà hay ngoài trời, đa phần là nấm sợi như các chi Alternaria, Asperillus, Cladosporium, Helminthosporium, Epicoccum, Penicillium, Fusarium..., chỉ có vài loài là nấm đơn bào như Candida, Rhodotorula, có một số loài là nấm lớn như Agaricus, Coprinus, Fomes, Ganoderma..., các bệnh nấm dị ứng phế quản phổi và viêm phổi quá mẫn.

Săn mồi

Một số loài nấm là những kẻ săn giun tròn. Chúng có thể biến đổi sợi nấm để tạo thành những cấu trúc đặc biệt có chức năng bẫy giun tròn, nên được gọi với tên chung là nấm bẫy mồi. Những loại bẫy thường thấy là: mạng dính (hay lưới dính), bọng dính, vòng không thắt, cột dính, vòng thắt và bào tử dính. Các loài nấm bắt mồi theo kiểu này thường thuộc các chi Arthrobotrys, Dactylaria, DactylellaTrichothecium. Có vài loài như Zoopage phanera thì lại tiết chất dính ra toàn bộ mặt ngoài sợi nấm và cũng có khả năng bẫy mồi tương tự.

Dinh dưỡng và khả năng tự dưỡng

Sự phát triển của nấm dưới dạng sợi nấm ở những môi trường rắn cũng như dưới dạng đơn bào ở môi trường nước, đều được điều chỉnh để hút các chất dinh dưỡng hiệu quả nhất từ môi trường, bởi chúng đều có tỉ lệ diện tích bề mặt trên thể tích cao. Sự thích nghi hình thái đã được bổ sung bởi những enzym thủy phân trong những môi trường tiêu hóa có phân tử hữu cơ lớn, như polysaccarit, protein, lipid và những chất nền dinh dưỡng khác. Những phân tử này bị thủy phân thành những phân tử nhỏ hơn, sau đó trở thành những chất dinh dưỡng được hấp thụ vào tế bào nấm.

Thông thường nấm được coi là những sinh vật dị dưỡng, tức những cơ thể chỉ có thể lấy cacbon từ những sinh vật khác cho quá trình trao đổi chất. Tuy nhiên, nấm đã tiến hóa khả năng chuyển hoá mà cho phép chúng sử dụng đa dạng những loại chất nền hữu cơ để phát triển, bao gồm các hợp chất đơn giản như nitrat, amonia, acetat hay ethanol. Những nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng rằng nấm đã sử dụng sắc tố melanin để lấy năng lượng từ những phóng xạ ion hóa, như tia gamma, gọi nôm na là "vô tuyến dưỡng". Người ta cho rằng quá trình này có điểm tương đồng với quá trình quang hợp ở thực vật. Trong quá trình lên men rượu dưới điều kiện yếm khí, nấm men sẽ sản sinh ra rượu etanol và khí cacbonic (CO2) có vai trò làm nở bột mì. Một số loài nấm men của chi Saccharomyces cũng được sử dụng để sản xuất đồ uống có cồn, như bia hay rượu vang thông qua quá trình lên men rượu. Nấm men và vi khuẩn acetic được sử dụng trong quá trình chuẩn bị Kombucha, một loại trà ngọt lên men. Những loại men tìm thấy trong trà rất đa dạng, như Brettanomyces bruxellensis, Candida stellata, Schizosaccharomyces pombe, Torulaspora delbrueckiiZygosaccharomyces bailii. Ngoài ra, Vegemite và Marmite, những chiết xuất nấm men, đã được sử dụng rộng rãi làm gia vị để chế biến thức ăn trong đời sống.

nhỏ|phải|Vân xanh [[Pho mát xanh|pho mát Stilton với nấm Penicillium roqueforti.]] Một số loài nấm sợi thường được sử dụng để sản xuất sinh khối protein. Mốc Aspergillus oryzae được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước, như sản xuất nước tương (xì dầu), súp miso và rượu sake ở Nhật Bản hay làm tempeh ở Java. Mốc hoa cau được dùng để sản xuất tương, loại thực phẩm phổ biến ở Việt Nam, cũng chính là A. oryzae, và được dùng trong việc chế biến đồ ăn chay. Nhiều loại thực phẩm khác cũng được chế biến bởi mốc như chao (ủ nhờ mốc Actinomucor elegans, Mucor racemosus hay Rhizopus), ang-kak (gạo lên men với mốc đỏ Monascus purpureus), salami (một loại xúc xích, lên men nhờ P. nalgiovense, P. chrysogenum). Trong sản xuất pho mát, một kinh nghiệm thông thường là cấy bào tử nấm vào sữa đông để tạo mốc, việc này sẽ cho ra hương vị và kết cấu đặc biệt độc nhất của pho mát. Ở những loại pho mát xanh, như Stilton hay Roquefort, thì những vân xanh được tạo ra bởi loài nấm Penicillium roqueforti.

Nấm ăn và nấm độc

nhỏ|trái|Những loại nấm châu Á, từ trái qua phải: [[nấm kim trâm|nấm kim châm, buna-shimeji, bunapi-shimeji, nấm sò vua và nấm hương]] nhỏ|trái|[[Nấm mỡ được trồng tại một trang trại ở Hungary]] Những loài nấm quả thể được biết đến với hai dạng: nấm ăn được và nấm độc. Nấm ăn được sử dụng rộng rãi làm thực phẩm, chúng có thể sử dụng trong rất nhiều món ăn, ở nhiều nền ẩm thực khác nhau. Nấm là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, có độ đạm cao và ít chất béo, chứa nhiều vitamin nhóm B và C. Nấm cũng chứa nhiều nguyên tố vi lượng, như sắt, seleni, natri, kali, magnesi và phosphor, được trồng ở ít nhất 70 quốc gia trên thế giới. Những dạng khác của A.bisporus là portabella và nấm mũ (crimini) cũng được trồng thương mại. Nhiều loại nấm châu Á cũng được trồng và tiêu thụ rộng rãi là nấm rơm (Volvariella volvacea), nấm hương (Lentinula edodes), nấm sò (Pleurotus ostreatus), mộc nhĩ (Auricularia auricula-judae), enokitake (nấm kim châm, Flammulina) và nấm múa (Grifola frondosa).

nhỏ|phải|Nấm tử thần [[Nấm tử thần|Amanita phalloides]] Có nhiều loại nấm được thu hoạch từ tự nhiên để cho cá nhân hay để bán như nấm sữa (Lactarius deliciosus), nấm nhăn (nấm bụng dê, Morchella), nấm mồng gà (Cantharellus), nấm cục (Tuber), nấm kèn đồng (Cantharellus) và nấm thông (Boletus edulis), chúng thường đắt tiền và dành cho những người sành ăn. Hái nấm là hoạt động phổ biến ở nhiều vùng của Châu Âu và tây bắc Hoa Kỳ. Tuy nhiên những người đi hái nấm phải rất chú trọng về việc phân biệt nấm ăn và nấm độc. Có nhiều loại nấm đặc biệt độc đối với con người, độc tính của nấm có thể nhẹ và gây ra bệnh tiêu hóa hay dị ứng cũng như ảo giác, nhưng cũng có thể đủ mạnh để gây liệt các cơ quan và chết người. Có khoảng 10.000 loại nấm thịt, trong đó có một nửa là ăn được và 100 loài có độc tố cao. Những loài thuộc chi cuối như "thiên thần hủy diệt" A. virosa hay nấm tử thần A. phalloides là những loại nấm độc chết người thông dụng nhất. Loại nấm moscela giả (Gyromitra esculenta) khi nấu chín là một thức ăn ngon, nhưng lại độc khi ăn sống. Nấm Tricholoma equestre đã từng được cho là ăn được cho đến khi nó bị phát hiện là gây ra bệnh Rhabdomyolysis (hủy hoại cơ bắp).

nhỏ|phải|Loài nấm gây ảo giác Amanita muscaria Nấm màu đỏ Amanita muscaria gây độc không thường xuyên, khi ăn vào nó có thể trở thành loại thuốc kích thích và sinh ảo giác. Trong lịch sử, những tu sĩ cổ đại người Celt ở Bắc Âu và người Koryak ở Siberi đã sử dụng loại nấm này với mục đích tôn giáo và làm phép. Cũng có nhiều loài nấm gây ảo giác khác, chúng được gọi là "nấm ma thuật", "mush" hoặc "shroom", thuộc nhiều chi khác nhau như Psilocybe, Panaeolus, Gymnopilus, Copelandia, Conocybe... Chúng có thể tác động lên trí tuệ và hành vi của con người, tạo cảm giác hư ảo hưng phấn, và cũng có vai trò trong việc chữa trị truyền thống ở một số địa phương.

Để phân biệt được nấm ăn được và nấm độc thì có nhiều kinh nghiệm cùng với các cơ sở nghiên cứu: không ăn nấm sặc sỡ, có mùi hắc, không ăn nấm quá non hay quá già, không ăn nấm có chảy sữa... Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp ngoại lệ, như có nấm độc có màu sắc và hình dạng giống nấm thường. Vì thế rất khó để có thể nhận biết được nấm an toàn và nấm độc nếu không có đủ kinh nghiệm và kiến thức, và lời khuyên tốt nhất là hãy coi tất cả nấm ở trong rừng là nấm độc và bỏ qua nó.

Dược liệu và chiết xuất

Nhiều loại nấm ăn đã được sử dụng trong y học truyền thống hàng ngàn năm nay. Những loại nấm như nấm múa, nấm hương (đông cô), nấm chaga, nấm linh chi... đã được tập trung nghiên cứu bởi khả năng chống ung thư, chống virus và tăng cường hệ miễn dịch của chúng. Loài nấm Đông trùng hạ thảo (Cordyceps sinensis) được coi là một dược liệu quý hiếm và đã được sử dụng ở Trung Quốc từ lâu . Loài nấm cổ linh chi (Ganoderma applanatum) cũng từng được coi là một "thần dược" ở Việt Nam, mặc dù không có bằng chứng cụ thể nào về khả năng trị bệnh của nó . Psilocybin và LSD, những chất gây ảo giác được chiết xuất từ nấm, có thể dùng để chữa các bệnh về tâm thần, như chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), và cũng được dùng (với lượng nhỏ) để chấp dứt những cơn nhức đầu hàng loạt (cluster headache) hay đau nửa đầu. LSD mạnh gấp 100 lần psilocybin , được tổng hợp vào năm 1938, và là một loại ma túy quen thuộc.

Công thức hóa học Penicillin Trong số 12.000 loại kháng sinh được biết năm 1995 có khoảng 22% được sản xuất từ nấm sợi. Trong số đó, kháng sinh Penicillin, được Alexander Fleming tổng hợp từ nấm Penicillium chrysogenum vào năm 1928, được sử dụng rất rộng rãi trong chữa trị y học thế kỷ XX. Chúng có thể chữa được các bệnh vi khuẩn như bạch hầu, viêm phổi, viêm màng não, hôi miệng, giang mai, lậu và kể cả vi khuẩn Staphylococcus gây ra nhiễm trùng huyết .

Áp dụng công nghệ DNA tái tổ hợp, nhiều gen đã được chuyển vào những loại nấm như nấm men S. cerevisiae, Pichia pastoris, Schizosaccharomyces pombe, Kluyveromyces lactis, Candida albicans, Hansenula polymorpha, Yarrowia lipolytica.. và nấm sợi Aspergillus niger, A. nidulans, A. oryzae, Neurospora crassa, Trichoderma reesei... với mục đích sản xuất công nghiệp. Nhờ khả năng phát triển nhanh, chúng được nuôi trồng và cho ra nhiều loại sản phẩm protein đa dạng giá trị rất lớn trong y học như insulin, vắc-xin viêm gan B, interferon, nhân tố tăng trưởng biểu bì, hemoglobin người, superoxide dismutase, interleukin... Ngoài ra các nấm chuyển gen cùng với các vi khuẩn còn những nguồn chính cho các enzym sử dụng trong công nghệ thực phẩm cũng như trong công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy. Ngành công nghiệp nuôi cấy nấm đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền công nghiệp toàn cầu, trong đó ông nêu 4 dạng: lọc sinh học bằng nấm (mycofiltration), lâm nghiệp bằng nấm (mycoforestry), cải tạo sinh học bằng nấm (mycoremediation) và thuốc trừ sâu bằng nấm (mycopesticide). Về nấm được dùng làm thuốc trừ sâu sinh học, có thể xem ở điều khiển sinh học bằng nấm.

Cải tạo sinh học được hiểu là sử dụng các vi sinh vật, nấm hay cây xanh để đưa môi trường tự nhiên bị ô nhiễm trở về trạng thái ban đầu. Nấm tiết ra bên ngoài các enzym và axít có khả năng phân giải lignin và cellulose, hai thành phần chính của gỗ, và có cấu trúc tương tự với nhiều chất ô nhiễm hữu cơ. Một số loại nấm, đặc biệt là nấm mục trắng (Phanerochaete chrysosporium), có thể phân giải các chất độc hại cho môi trường như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, pentachlorophenol, creosote, nhựa than đá và những nhiên liệu nặng thành CO2, nước và những nguyên tố cơ bản . Chúng có thể phân giải hay loại trừ các nguyên tố độc hại như chì, arsenic, caesi, cadmi, thủy ngân, những vũ khí và chất độc hóa học như thuốc nổ TNT, chất độc thần kinh VX và sarin. Những nghiên cứu gần đây cho thấy nấm có khả năng bao bọc urani vào trong những dạng khoáng.

Điều khiển sinh học

nhỏ|phải|[[Phân bộ Châu chấu|Châu chấu bị nấm Beauveria bassiana giết]] Nấm rất tích cực trong cạnh tranh về dinh dưỡng và không gian với những sinh vật khác, thông qua định luật Gause (nguyên tắc ức chế cạnh tranh), và điều này đôi khi có lợi cho con người. Ví dụ, nấm có thể ngăn chặn sự tăng trưởng hay loại trừ kẻ thù nguy hiểm của thực vật và con người, như kiến đục gỗ, mối, châu chấu, muỗi, ve bét , cỏ dại, giun tròn hay nấm khác mà có thể gây hại cho mùa màng và nhà cửa . Khả năng điều khiển sinh học các loài gây hại cho nông nghiệp của nấm đã được quan tâm và ứng dụng thực tế. Loài nấm ký sinh côn trùng đã được sử dụng làm thuốc trừ sâu sinh học vì khả năng ký sinh và tiêu diệt côn trùng của chúng . Một số ví dụ về những nấm loại này là Beauveria bassiana, Metarhizium anisopliae, chi Hirsutella, chi PaecilomycesVerticillium lecanii. Có ít nhất 14 loại nấm có khả năng chống rệp . Loài nấm thuộc chi Trichoderma cũng có khả năng ngăn chặn những loài nấm gây bệnh cho cây .

Những loài nấm sống trong cây thuộc chi Neotyphodium như N. coenophialum tiết ra các ancaloit có độc tính với các loài động vật ăn thực vật có xương sống hay không xương sống, mặc dù một số chất có thể độc với những loài gia súc như cừu . Đặc tính của các loại nấm này đã được sử dụng trong các chương trình gây giống cây, nhằm tăng khả năng chống chịu và phòng ngự của cây trồng với các loài ăn thực vật.

Kẻ phá hoại

frame|trái|Mốc che phủ và thối rữa quả đào sau 6 ngày. Mỗi hình tương đương với sau 12 giờ. Mặc dù có rất nhiều lợi ích, nhưng nấm cũng có không ít tác hại. Ngoài mầm bệnh và chất độc, nấm còn có thể là những kẻ phá hoại ghê gớm. Dưới điều kiện độ ẩm thích hợp, nấm mốc sẽ phát triển và sinh sôi trong các căn nhà. Chúng tiết ra các enzym và acid để phân huỷ các chất hữu cơ, do đó nên chúng có thể phá hoại áo quần, tranh vẽ, phim ảnh, đồ da, sáp, chất cách điện trên dây điện hoặc dây cáp, các chất phủ máy ảnh, máy quay phim và cả chất khởi động máy bay.

Bởi tính năng phân giải cellulose và lignin, nên nhiều loại nấm có thể phá huỷ hay làm mục gỗ ở nhà cửa và công trình xây dựng, gây thiệt hại lớn về kinh tế hàng năm. Có ba dạng nấm làm mục gỗ chính: mục khô (dry rot), mục ẩm (wet rot) và mục mềm (soft rot) dựa theo đặc điểm của gỗ bị mục. Ngoài ra còn có mục nâu (brown rot) - chuyên tấn công và phá hủy các loại quả hạch, như đào, lê, táo, mận - và mục trắng (white rot), dựa theo màu sắc gỗ mục. Những loài nấm phá huỷ gỗ phổ biến nhất là Serpula lacrymans, Coniophora putana, chi Antrodia, Phellinus Contiguous, chi Asterostroma....

Nguồn gốc và phân loại

Trong một thời gian dài, các nhà phân loại học đã xếp nấm là thành viên của giới Thực vật. Sự phân loại này chủ yếu được dựa trên sự tương đồng trong cách sống giữa nấm và thực vật: cả nấm và thực vật chủ yếu đều không di động, hình thái và môi trường sống có nhiều điểm giống nhau (nhiều loài phát triển trên đất, một số loại nấm quả thể giống thực vật như rêu). Thêm nữa, cả hai đều có thành tế bào, điều mà giới Động vật không có. Tuy nhiên, hiện nay nấm lại được công nhận là một giới riêng biệt, khác biệt hẳn với thực vật hay động vật, chúng đã tách ra và xuất hiện xấp xỉ hơn một tỷ năm trước. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những sự giống và khác về đặc điểm hình thái, sinh hóa và di truyền giữa Nấm và các giới khác. Vì những lý do đó, nấm đã được đặt vào giới riêng của mình.

Lịch sử tiến hóa

Nấm [[Armillaria ostoyae thuộc Basidiomycota. Cây nấm A. ostoyae được tìm thấy ở rừng quốc gia Malheur ở Oregon hiện tại là cây nấm lớn nhất thế giới theo diện tích bề mặt với khoảng 8.9 km² (2.200 mấu Anh) và hơn 2400 năm tuổi.]] Những cơ thể đầu tiên mang những đặc trưng của nấm xuất hiện vào khoảng 1200 triệu năm (Ma) trước đây, ở Liên đại Nguyên Sinh. Tuy nhiên, những hóa thạch nấm thì không phổ biến cho đến đầu kỷ Devon, khi chúng xuất hiện ở đá Rhynie. Ở Đại Cổ Sinh, nấm xuất hiện trong môi trường nước nước, bao gồm những sinh vật tương tự có mang tiên mao (flagella) tương tự như nấm Chytrid. Những ghi nhận về hóa thạch đầu tiên của nấm rất rời rạc và ít ỏi. Những loài nấm bắt đầu xâm lấn mặt đất trong kỷ Cambri, một thời gian dài trước thực vật. Những lớp nấm hiện đại xuất hiện ở cuối kỷ Than Đá (phân kỷ Pennsylvania). "Fungal spike", một cum từ được đặt ra bởi các nhà cổ sinh vật học, để nói lên sự phong phú của bào tử nấm trong những trầm tích được tạo ra ngay sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias; người ta cho rằng nấm là những dạng sống chủ yếu trong thời kỳ này - khi chúng chiếm đến gần 100% các dữ liệu hóa thạch được tìm thấy . Tuy nhiên thuật ngữ này đã gây ra nhiều tranh cãi: hình dạng của những bào tử nấm (như Reduviasporonites) đôi khi lại tương đồng với bào tử tảo và rất khó để xác định, "spike" không xuất hiện trên toàn cầu và ở nhiều nơi nó lại không rơi vào giai đoạn Permi-Trias.

Những nghiên cứu sử dụng phát sinh loài phân tử củng cố nguồn gốc đơn ngành (monophyletic) của giới Nấm.

Không có bất cứ một hệ thống phân loại nấm ở bậc cao duy nhất nào được công nhận, và những tên gọi thường thay đổi ở mọi cấp độ, kể từ loài trở đi. Dù vậy, những nỗ lực của những nhà nghiên cứu nấm đang được thực hiện để có thể thiết lập và khuyến khích việc sử dụng một danh pháp ổn định và duy nhất.

  • Ngành Blastocladiomycota trước đây từng được cho là một nhánh phân loại của Chytridiomycota. Những dữ liệu phân tử và đặc điểm siêu cấu trúc gần đây đã đưa Blastocladiomycota vào một nhánh riêng giống như với các ngành Zygomycota, Glomeromycota và Dikarya. Lớp nấm Blastocladiomycetes là những sinh vật hoại sinh hoặc ký sinh của tất cả các nhóm sinh vật nhân chuẩn và chúng giảm phân tạo bào tử, không giống với chytrid, họ hàng gần của chúng, là những loài chủ yếu giảm phân tạo hợp tử.
  • Những thành viên của ngành Glomeromycota là những nấm tạo ra nấm rễ mút phân nhánh (arbuscular mycorrhizae) ở thực vật bậc cao. Sự cộng sinh này đã có từ cổ đại, với những bằng chứng cho thấy đã có từ 400 triệu năm về trước. Tuy nhiên, hiện tại thì Nucleariid vẫn đang nằm trong giới Choanozoa.
👁️ 109 | ⌚2025-09-16 22:26:40.423

QC Shopee
phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh Lục Nam năm 1891, trước khi giải thể **Lục Nam** là một tỉnh cũ ở Bắc Bộ Việt Nam, nay là phần lớn địa bàn tỉnh Bắc Giang. Ngày 5 tháng 11
  Từ điển chức quan Việt Nam Hàng lưu kho lâu năm, sách thanh lý không hỗ trợ đổi trả theo nhu cầu hoặc do lỗi ngoại quan. Chỉ hỗ trợ hoàn tiền với trường
Cách Mạng Tháng Tám 1945 - Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20 (Trịnh Nhu - Trần Trọng Thơ) Cách đây tròn 80 năm - Tháng 8/1945,
Với "Sài Gòn năm xưa", chúng ta thấy một bức tranh tổng quát về thành phố Sài Gòn qua ngòi bút biên khảo và kể chuyện của học giả Vương Hồng Sển. Một Sài Gòn
Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII-XIX qua các nguồn tư liệu phương Tây - Nguyễn Thừa Hỷ   Tác phẩm "Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX" là một cuốn sách chất lượng, một công trình
Di sản Hán Nôm hết sức phong phú về nội dung, đem lại những giá trị văn hoá truyền thống trong dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Trên tinh thần khai thác vốn cổ
Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh - Trần Hưng Đạo (Bản Màu) Bộ sách Lịch sử Việt Nam bằng tranh kể chuyện lịch sử Việt Nam bằng một phong cách ngắn gọn, hấp dẫn và
Vua Bảo Đại (1913-1997) và Hoàng hậu Nam Phương (1913- 1963) là hai nhân vật lịch sử chiếm được khá nhiều sự quan tâm của công chúng, có lẽ do họ là vua và hoàng
"Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX trong bối cảnh văn hóa thời Lê mạt - Nguyễn" Cuốn sách cung cấp cái nhìn toàn diện về bối cảnh lịch sử, xã hội và
VIỆT NAM - MỘT GÓC NHÌN TỪ NHẬT BẢN - Ngày dự kiến có hàng: 31/07/2025 Trong bối cảnh quan hệ Việt Nam-Nhật Bản được nâng cấp lên “Đối tác chiến lược toàn diện vì
Một nghiên cứu đầy đủ về bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam từ thế kỷ 15-18 Trước nay khi đề cập đến địa vị xã hội của người phụ nữ Việt Nam, thường
Có một phong cách gọi theo tên của ngôi chùa – chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Đây không phải là thuật ngữ mà chúng tôi dùng mà là của học giả L.Bezacier viết sau nhiều
Các thành tố gia đình: Giới tính, chính quyền và xã hội ở Việt Nam thời kỳ cận đại (1463-1778) Một nghiên cứu đầy đủ về bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam từ
VUA DUY TÂN TRONG TÔI _Tiểu thuyết lịch sử _ Vua Duy Tân trong tôi là tiểu thuyết lịch sử đặc sắc của nhà văn Nguyễn Hữu Nam, mở ra một góc nhìn mới lạ
Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858 - 1897) (Tái Bản 2018) ------------   Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp
Nhằm cung cấp thêm cho bạn đọc một công trình nghiên cứu của GS.TS. Furuta Motoo về Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Việt Nam -
Một nghiên cứu đầy đủ về bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam từ thế kỷ 15-18 Trước nay khi đề cập đến địa vị xã hội của người phụ nữ Việt Nam, thường
Cuốn sách "Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam" của Phạm Hồng Tung là một công trình nghiên cứu lịch sử quan trọng, được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
Lao Động Di Cư Trong Lịch Sử Việt Nam Thời Pháp Thuộc “Lao động di cư trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc” bao gồm 12 tiểu luận đặc sắc của nhiều nhà Việt Nam
"Lĩnh Nam có đôi thầy trò là cuốn tiểu thuyết tình cảm lãng mạn, lấy cảm hứng lịch sử từ thuở hồng hoang nước Việt ta. Với chất liệu dân gian và màu sắc thần
Ngày dự kiến 10/10/2025 Cuốn sách "Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời" của học giả Đào Duy Anh là một công trình nghiên cứu địa lý học lịch sử đặc sắc, mang giá trị
Tác giả:  Trần Thị Phương Hoa Nhà xuất bản: Thế Giới Số trang: 324 Kích thước: 15.5x24 cm Ngày phát hành: 06-2023   Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với
Giới thiệu sách Theo Dấu Hoàng Hậu Nam Phương Và Vua Bảo Đại - Gía bìa: 185.000đ Vua Bảo Đại (1913-1997) và Hoàng hậu Nam Phương (1913- 1963) là hai nhân vật lịch sử chiếm được khá nhiều
“Lao động di cư trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc” bao gồm 12 tiểu luận đặc sắc của nhiều nhà Việt Nam học hàng đầu cùng bàn luận về chủ đề rất hiếm
Ngày nay, tận mắt nhìn lại một cuốn sách, tận tay chạm vào một tờ báo đã ra đời cách đây hơn một trăm năm, đa phần chúng ta không khỏi xúc động trước những di sản từng gắn bó, thậm chí góp phần làm nên một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Dưới lớp bụi thời gian, dấu chữ trên từng ấn phẩm đặt cho chúng ta bao câu hỏi: ai đã tạo nên chúng? Chúng được in ra khi nào, ở đâu, và bằng những kỹ thuật nào...?   Nhằm làm sáng tỏ buổi đầu hình thành và phát triển của ngành in hiện đại, cuốn sách Lần theo dấu chữ của tác giả Trịnh Hùng Cường đã cung cấp một cách tương đối đầy đủ và toàn diện thông tin về các nhà in và các hoạt động in ấn trong khoảng hơn nửa thế kỷ, từ 1862 đến 1920. Trong giai đoạn này, sự định hình nghề in do các thương gia người Pháp đưa đến, kéo theo đó là sự nở rộ và bước đầu lấn sân của các nhà in do người Việt làm chủ đã phần nào cho thấy lịch sử vô cùng sôi động của ngành in, một lĩnh vực đã từng bước can dự và thúc đẩy những biến cố lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam.  *** (Chữ ký tác giả) LẦN THEO DẤU CHỮ - Thời Kỳ Đầu In Ấn Sách Báo Chữ Latinh Ở Việt Nam (1862-1920) Tác giả: Trịnh Hùng Cường Nhà phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Thông Tấn  *** Thông tin sách: Hình thức: Bìa mềm  Khổ sách: 15,5 x 24 cm Số trang: 440 trang Cân nặng: 500gr Năm phát hành: 2024 *** #lần_theo_dấu_chữ  #nhã_nam
Lịch Sử Cơ Đốc Giáo Việt Nam Thế Kỷ 16 - 19là một công trình nghiên cứu đồ sộ, tâm huyết trong hơn 10 năm trời của giáo sư Trịnh Vĩnh Thường - chuyên gia
Tiếp Xúc Bí Mật Việt Nam – H K.ỳ Trước Hội Nghị Pari Ngày 27-01-1973, tại Pảu. "Hiệp định về chấm dứt ế , lập lại hòa bình ở Việt Nam", gọi tắt là Hiệp
Cuốn sách này, bắt nguồn từ luận án tiến sỹ của tác giả, đã hoàn thành vai trò của mình là làm sống lại thiên truyện về nền giáo dục Pháp tại Việt Nam trong
Ngày nay, tận mắt nhìn lại một cuốn sách, tận tay chạm vào một tờ báo đã ra đời cách đây hơn một trăm năm, đa phần chúng ta không khỏi xúc động trước những
Trường dạy nghề ở Việt Nam thời Pháp thuộc (1898-1945) ------------   Ở Việt Nam giai đoạn trung đại, nghề nghiệp gắn liền với gia đình, làng xã, địa phương. Mỗi vùng đất có một
Nhằm giới thiệu đến độc giả những tri thức mới, bồi đắp tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc, đồng thời phục vụ công tác học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học
Nam Kỳ và Cư Dân: Các Tỉnh Miền Đông Trong số nhiều tác phẩm về vùng đất và con người Việt Nam một thuở do người Pháp ghi chép, bộ sách 2 tập Nam kỳ
Từ Điển Chức Quan Việt Nam - Đỗ Văn Ninh Hàng lưu kho lâu năm, sách thanh lý không hỗ trợ đổi trả theo nhu cầu hoặc do lỗi ngoại quan. Chỉ hỗ trợ hoàn
Đô Thị Sài Gòn Chợ Lớn Trước Năm 1945 Qua Tài Liệu Lưu Trữ - Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia II - (bìa mềm) - Giá bìa: 220.000đ *** Với tiến trình lịch sử
Địa Chí Hành Chính Các Tỉnh Nam Kỳ Thời Pháp Thuộc (1859-1954) Trong tác phẩm Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam kỳ (1859-1954), phần nói về công việc tổ chức nền hành chính
"Để khám phá các đặc điểm về lao động, sức khỏe và môi trường ở Nam Đông Dương, Cây cao su ở Việt Nam dưới góc nhìn Lịch sử - Sinh thái (1897 - 1975)
MỘT TRONG NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐẦY GIÁ TRỊ VỀ LỊCH SỬ AN NAM! Bài giảng lịch sử An Nam là công trình được Trương Vĩnh Ký tổng hợp và nghiên cứu từ nhiều
Tác phẩm Nam Ông Mộng Lục cung cấp cái nhìn cận cảnh về sinh hoạt An Nam thời đầu tự chủ với sự dung hòa rõ rệt của văn hóa Nho-Phật-Đạo (Tam giáo đồng nguyên).
“Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại” là cuốn tư liệu nhân vật viết về con người, cuộc đời Vua Bảo Đại (1913 - 1997) và Hoàng hậu Nam Phương (1913 - 1963), được viết theo trình tự thời gian. Cuốn sách chia làm thành bốn phần chính: - Phần I: Thiếu nữ Nam Kỳ và hoàng thái tử triều Nguyễn - Phần II: Hoàng hậu và hoàng đế Đại Nam - Phần III: Những ngày bất an - Phần IV: Từ lâu đài Thorenc đến gia trang Chabrignac - Phần cuối: Những năm buồn tẻ của cựu hoàng Nội dung có nhiều thông tin mới, khác với những cuốn khác, như ngày sinh thật, quê quán đúng của Hoàng hậu Nam Phương; những hoạt động xã hội và thiện nguyện của Hoàng hậu Nam Phương, quan hệ của bà với giới thượng lưu, quý tộc Pháp; những công việc triều chính của Vua Bảo Đại; những câu chuyện tình cảm của Vua Bảo Đại và đặc biệt là quãng thời gian 16 năm ở Pháp của gia đình Hoàng hậu Nam Phương… Hai tác giả Vĩnh Đào - Nguyễn Thị Thanh Thúy đã dành ba năm để tìm hiểu, khảo cứu, kiểm chứng tư liệu và viết cuốn sách này. Xin đính kèm nguyên văn Lời Nhà xuất bản in trong sách: “Lời Nhà xuất bản Vua Bảo Đại (1913 - 1997) và Hoàng hậu Nam Phương (1913 - 1963) là hai nhân vật lịch sử chiếm được khá nhiều sự quan tâm của công chúng, có lẽ do họ là vua và hoàng hậu cuối cùng của chế độ quân chủ ở Việt Nam, và cũng có lẽ do cuộc đời, con người họ khá đặc biệt. Đã có nhiều cuốn sách viết riêng về Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương, tuy nhiên trong đó có nhiều chi tiết, sự kiện chưa được kiểm chứng và đối chiếu, thậm chí có những chi tiết thêu dệt thành giai thoại. Những sự kiện, chi tiết ấy, tiếc thay, chính người trong cuộc là Vua Bảo Đại, trong cuốn hồi ký xuất bản tại Pháp Con rồng An Nam, vì một lý do nào đó đã không nhắc đến hoặc ghi theo suy nghĩ của riêng ông. Thế nên, xung quanh Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương có nhiều giai thoại, nhiều sự kiện, sự việc được ghi chép khác nhau, thậm chí là bất nhất. Hai tác giả của Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại – Vĩnh Đào và Nguyễn Thị Thanh Thúy – đã ròng rã suốt ba năm trời thực hiện nhiều chuyến đi thực tế đến những nơi lưu dấu của Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương ở Việt Nam, từ Sài Gòn về Tiền Giang, rồi từ Tiền Giang về Thủ Đức, Chợ Lớn, Biên Hòa, lên Đà Lạt, Kon Tum, ra Quy Nhơn, Huế, Hà Nội… cùng những chuyến đi ở Pháp, đến những nơi nhà vua, Hoàng hậu đã đi qua, sinh sống để tìm tư liệu, gặp nhân chứng và hậu duệ của những người cùng thời, phỏng vấn nhiều nhân chứng trong và ngoài nước, trong đó có cựu thị trưởng làng Chabrignac để tìm hiểu, đối chứng. Bên cạnh đó là sự dày công sưu tầm, khảo cứu từ nhiều nguồn tài liệu sách báo xuất bản trong và ngoài nước ở Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Trung tâm Quốc gia Văn khố Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), các thư viện của tu viện dòng Mến Thánh giá Chợ Quán, dòng Đức Bà, Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn,… để sưu tầm, khảo cứu, xác minh, kiểm chứng thông tin. Đặc biệt, tác giả Vĩnh Đào (Nguyễn Phước Vĩnh Đào) là con cháu hoàng tộc triều Nguyễn. Tác giả Vĩnh Đào và Vua Bảo Đại cùng là cháu của hai anh em ruột Miên Định - Miên Tông. Nguyễn Phước Vĩnh Đào là cháu Miên Định (Thọ Xuân Vương), Nguyễn Phước Vĩnh Thụy (Vua Bảo Đại) là cháu của Miên Tông (Vua Thiệu Trị). Tác giả Vĩnh Đào là người trong hoàng tộc, đồng thời là một nhà nghiên cứu nên các thông tin về Vua Bảo Đại và triều Nguyễn dưới thời Bảo Đại được ông tổng hợp và phân tích mang tính am hiểu sâu sắc. Cùng với đó, việc ông sinh sống và làm việc ở Pháp cũng là một điều kiện thuận lợi trong quá trình tìm hiểu, sưu tầm, tra cứu tư liệu về Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương. Nhờ vậy, cuốn sách này không chỉ cung cấp thông tin phong phú, có giá trị mà còn mang lại nhiều thông tin mới về: ngày tháng năm sinh chính thức, quê quán thực sự của Hoàng hậu Nam Phương; đóng góp của bà cho an sinh xã hội ở Việt Nam; quan hệ của bà với giới thượng lưu, quý tộc Pháp; những công việc triều chính của Vua Bảo Đại; thực hư về những câu chuyện tình cảm của Vua Bảo Đại và đặc biệt là quãng thời gian 16 năm ở Pháp của gia đình Hoàng hậu Nam Phương… Hy vọng cuốn sách Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại – gắn liền với hành trình ba năm “theo dấu” của hai tác giả Vĩnh Đào, Nguyễn Thị Thanh Thúy để lý giải những thông tin bất nhất về cuộc đời vua và hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn – sẽ cung cấp nhiều tư liệu hữu ích cho các quý độc giả quan tâm. Tuy nhiên, chúng tôi xin lưu ý, đây không phải là công trình nghiên cứu lịch sử chuyên khảo, mà chỉ là một cuốn tư liệu lịch sử về cuộc đời Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương, được thể hiện dưới góc nhìn và lập luận của cá nhân tác giả. Chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp cho những lần tái bản sau.                  
LỜI NHÀ XUẤT BẢN Nhằm giới thiệu đến độc giả những tri thức mới, bồi đắp tinh thần yêu nước và phục vụ công tác học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học lịch sử, trong
Hội Kín Xứ An Nam (Bìa Cứng) Cuốn sách này nghiên cứu về hội kín ở xứ An Nam, khởi từ sự bất ngờ và ngỡ ngàng của người Pháp về chuỗi sự kiện mưu
"Việt Nam Văn Hội" là một tác phẩm đặc sắc của nhà sử học uy tín Nguyễn Thế Anh, mang đến cho bạn đọc cái nhìn sâu sắc và toàn diện về các tổ chức
Lịch sử Việt Nam bằng tranh - Trần Hưng Đạo (bản màu) ------------ Bộ sách Lịch sử Việt Nam bằng tranh kể chuyện lịch sử Việt Nam bằng một phong cách ngắn gọn, hấp dẫn
Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858 - 1897) (Tái Bản 2018) ------------   Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp
[Giải Cứu Sách Hay – Xả Kho Sách Ế] - VIỆT NAM THỜI DỰNG NƯỚC Chương trình áp dụng từ 25/8 tới 8/9/2025 ___ Cuốn sách này viết về Việt Nam từ thời kỳ khởi