✨Hệ thống đánh tên máy bay quân sự Nhật Bản

Hệ thống đánh tên máy bay quân sự Nhật Bản

Hệ thống đánh mã máy bay quân sự của Nhật Bản trong thời kỳ Đế quốc (trước 1945) bao gồm hệ thống cho mỗi đơn vị vũ trang. Điều này dẫn đến việc sử dụng tên mã của Đồng minh trong Thế chiến thứ hai, và những tên mã này vẫn được biết đến nhiều hơn trong các văn bản tiếng Anh hơn là tên thật của Nhật đối với các máy bay này. Một số hệ thống khác nhau được sử dụng đồng thời. 

Không lực Hải quân Đế quốc Nhật

đã sử dụng nhiều hệ thống đặt tên máy bay khác nhau cùng một lúc.

  • Giữa năm 1931 và 1945, máy bay có số Shi chỉ định đặc điểm kỹ thuật mà chúng được thiết kế.
  • Hệ thống kiểu(shiki) dài và mã mẫu từ năm 1920 đến 1943
  • Một hệ thống chỉ định ngắn tương tự như của Hải quân Hoa Kỳ sử dụng giữa cuối những năm 1920 đến 1945
  • Một hệ thống tên phổ biến được giới thiệu để thay thế các số kiểu từ năm 1943 đến 1945.

Số kỹ thuật Shi

Thông số kỹ thuật của Hải quân Nhật Bản từ năm 1931 được đưa ra một số thí nghiêm (số Shi), dựa trên năm triều đại của Thiên Hoàng, đặc điểm kỹ thuật được ban hành. Vì nhiều thông số kỹ thuật có thể được ban hành trong một năm, con số này đã được xác định rõ ràng bằng mục đích máy bay.

Trong thời gian hệ thống chỉ định này được sử dụng,Thiên Hoàng được đề cập là Hirohito, Hoàng đế Chiêu Hòa, do đó số năm _Chiêu Hòa _được sử dụng, bắt đầu từ năm 1926.

Ví dụ: Thông số cho thiết kế máy bay Mitsubishi A6M Zero được đề ra vào năm 1937 nhằm thiết kế máy bay chiến đấu trên tàu sân bay. Do năm đó là năm trị vì thứ 12 của Thiên Hoàng Chiêu Hòa(Hirohito) cái tên shi của nó là thông số máy bay chiến trên tàu sân bay 12-shi.

Hệ thống Shiki dài và mã Mẫu

Sau năm 1929, các loại máy bay được đặt cho một mã dựa trên hai chữ số cuối của năm lịch Nhật được tính từ ngày thành lập thần thoại của Nhật Bản vào năm 660 trước công nguyên bởi Thiên Hoàng Jimmu. Thêm vào sau là một mô tả ngắn gọn về chức năng của máy bay.

Tiếp tục với ví dụ chiếc Zero, Nó lấy tên Zero(0) vì được đưa vào phục vụ năm 1940 tương đương với năm 2600 của Nhật Bản, do đó nó được chỉ định Máy bay chiến đấu trên tàu sân bay kiểu 0 (零式艦上戦闘機). (Do viết theo ngữ pháp của tiếng Việt nên phần chức năng được đưa lên đầu còn đúng theo quy chuẩn Nhật sẽ là Kiểu 0 Máy bay chiến đấu trên tàu sân bay).

Số mẫu được thêm vào để hiển thị các loại phụ. Vào cuối những năm 1930, đây là hai chữ số, số đầu tiên chỉ sửa đổi về khung máy bay, số kia chỉ các phiên bản động cơ. Máy bay chiến đấu Kiểu 0 Mẫu 52 chỉ đây là phiên bản khung thứ 5, động cơ thứ 2 (Động cơ Sakae 21).

Hệ thống này đã bị loại bỏ vào năm 1943 sau khi Hải quận khẳng định rằng nó đã cho đi quá nhiều thông tin về chiếc máy bay.

Hệ thống ngắn

Vào cuối những năm 1920, một lược đồ chỉ định ngắn đã được áp dụng, tương tự như hệ thống chỉ định máy bay Hải quân Hoa Kỳ năm 1922. Đề án này sử dụng một hoặc hai kí tự để chỉ định loại máy bay, một số để cho biết số trong chuỗi loại máy bay đó, và cuối cùng là một chữ để chỉ định nhà sản xuất. Không giống như hệ thống của Hải quân Hoa Kỳ, hệ thống của Nhật không có chuỗi số khác nhau cho từng nhà sản xuất và không bỏ qua số "1".

Do đó, chiếc Zero trong hệ thống chỉ định này là A6M, có nghĩa là loại máy bay chiến đấu trên tàu sân bay đời thứ sáu thuộc hệ thống chỉ định này và nó được chế tạo bởi Mitsubishi.

Các biến thể được biểu thị bằng một số bổ sung ở cuối; thay đổi về mục đích được chỉ định bằng một dấu gạch ngang và sau đó là chữ cái mới. A6M2-N là phiên bản thứ hai của chiếc Zero được dùng làm thủy phi cơ chiến đấu

Đôi khi hai chiếc máy bay được đặt hàng từ các nhà sản xuất khác nhau đến cùng một đặc điểm kỹ thuật cùng một lúc, nhằm đề phòng thiết kế chính không đạt yêu cầu. Trong trường hợp này, số trong chuỗi được sử dụng chung cho cả hai.

_Dữ liệu từ:_Japanese Military Aircraft Designations

| valign="top" |

|}

Tên chính thức

Sau tháng 7 năm 1943, Hải quân thay hệ thống chỉ định Shiki bằng hệ thống đặt tên thông dụng. Những tên này được đưa ra dựa theo một lượt đồ dựa trên vai trò của máy bay:

Máy bay chiến đấu: Thời tiết và tên khí tượng  Máy bay chiến đấu trên tàu sân bay và thủy phi cơ chiến đấu: Tên gió thường kết thúc bằng Ví dụ: Reppu (烈風, Liệt Phong)  Máy bay tiêm kích: Tên sét kết thúc bằng Ví dụ: Shinden (紫電, Tử Sét) Máy bay chiến đấu đêm: Tên ánh sáng kết thúc bằng
Ví dụ: Denko (電光, Điện Quang) Máy bay tấn công: Tên núi kết thúc bằng
Ví dụ: Tenzan (天山, Thiên Sơn)
Máy bay ném bom: Tên sao hoặc chòm sao thường kết thúc bằng Ví dụ: Ryusei (流星, Lưu Tinh) Máy bay tuần tra: Tên biển hoặc đại dương kết thúc bằng
Ví dụ: Tokai (東海, Đông Hải)
Máy bay trinh sát: Tên đám mây kết thúc bằng Ví dụ: Saiun (彩雲, Thái Vân) Máy bay huấn luyện: Cây gỗ, cỏ và hoa  Ví dụ: Shiragiku (白菊, Bạch Cúc) Máy bay vận tải: Tên bầu trời kết thúc bằng Ví dụ: Seiku (晴空, Tình Không) Khác: Tên cảnh quan Ví dụ: Ginga (銀河, Ngân hà) Máy bay cảm tử Kamikaze:** Tên hoa kết thúc bằng

  • Ví dụ: Ohka (櫻花, Anh Đào)

Trường hợp đặc biệt bao gồm máy bay sử dụng hệ thống đảy không thông dụng (tức là không sử dụng cánh quạt) như máy bay tiêm kích tên lửa Shūsui (dich thơ là "đao sắt"), và máy bay được triển khai một cách khác thường như Máy bay tấn công đặc biệt Seiran ("Tinh Sơn", triển khai từ tàu ngầm để tấn công mục tiêu phía sau tiền tuyến và dự kiến sẽ bị bỏ rơi khi trở về với các tàu mẹ).

Không lực Lục quân Đế quốc Nhật

Không lực Lục quân Đế quốc Nhật (大日本帝國陸軍航空隊 Dai Nippon Teikoku Rikugun Kōkūtai) hay còn gọi là Không quân Lục quân Nhật (大日本帝國陸軍航空部隊 Dainippon Teikoku Rikugun Kōkūbutai?)  sử dụng một hệ thống đơn giản dựa trên năm phục vụ và kiểu, gần giống với hệ thống kiểu dài và mã mô hình của Hải quân. Hệ thống này được sử dụng từ năm 1927. Chỉ định "Ki" (キ; viết tắt của kitai(機体) = khung máy bay) cũng được sử dụng và trở nên ưu chuộng trong những năm sau đó.

Hệ thống Shiki dài và mã Mẫu

Giống như Hải quân, phần đầu tiên của tên gọi là một loại số có hai chữ số dựa trên năm Nhật Bản mà máy bay được đưa vào phục vụ. Một ngoại lệ nhỏ là năm 1940 (2600), thì dùng số 100 thay vì số 0 như là hải quân. Tiếp theo là phần mô tả chức năng của máy bay. Nếu có từ hai máy bay trở lên có cùng kiểu và chức năng, phần sau sẽ thêm chi tiết để phân biệt chúng hơn nữa. Một ví dụ là máy bay chiến đấu một chỗ ngồi Kiểu 2 (Nakajima Ki-44) và máy bay chiến đấu hai chỗ ngồi Kiểu 2 (Kawasaki Ki-45).(Giống trên, cách viết của Nhật sẽ là Kiểu 2 máy bay chiến đấu một chỗ ngồi)

Những thay đổi lớn (như một động cơ khác) được chỉ định với một số phụ, chính thức bằng chữ Hán nhưng thường bằng chữ số La Mã. Sửa đổi quy mô nhỏ (như vũ khí) được chỉ định với kí hiệu thứ tự Nhật(甲, 乙, 丙), hoặc "kai" (改) nếu sửa đổi lớn nhưng không đủ cho một số loại mới.Ví dụ chiếc Ki-44-II Otsu(乙) thể hiện một sửa đổi lớn(thay qua động cơ Nakajima Ha-109) và một thay đổi nhỏ(đổi qua súng máy Ho-103).

Tên ngắn (số "Ki")

Hệ thống chỉ định khung máy bay "Ki" cho biết số dự án (được viết bằng chữ số Ả Rập) và được gán theo thứ tự cho tất cả các dự án bất kể nhà sản xuất hay loại. Ví dụ máy ném bom hạng nhẹ Ki-32 theo sau là máy bay chiến đấu Ki-33.

Tên phổ biến

Các tên phổ biến như "Hayabusa" (Nakajima Ki-43) không phải là một phần của tên gọi chính thức.

Lịch và số Shiki

Dữ liệu từ:

Bảng tên

Đây là một bảng có thể sắp xếp cho tất cả các tên chỉ định khác nhau và tên gọi của máy bay quân sự Nhật Bản từ khoảng năm 1925 đến năm 1945. Dữ liệu từ:

Tên máy bay Không lực Hải quân Nhật

Máy bay chiến đấu và biến thể

Máy bay tấn công và biến thể

Máy bay trinh sát và biến thể

Máy bay khác và biến thể

Máy bay không rõ danh tính

Tên máy bay Không lực Lục quân Nhật

Ki-1-50

Ki-51-100

Ki-101+

Máy bay khác

Ngoài ra

  • Hệ thống nhận diện động cơ của Nhật
  • Hệ thống đặt tên máy bay quân sự của Anh Quốc
  • Hệ thống đặt tên RLM (Đức quốc xã)
  • Mark (Hệ thống đặt tên)
  • Kiểu (Hệ thống đặt tên)
  • Mã hiệu của phe Đồng Minh cho máy bay Nhật