✨Bảo vệ thiên nhiên ở Ba Lan

Bảo vệ thiên nhiên ở Ba Lan

nhỏ|300x300px| Sự phân bố của các công viên quốc gia (khu vực xanh) và một số công viên cảnh quan (khu vực màu vàng) ở Ba Lan nhỏ|Bò rừng được coi là biểu tượng của bảo vệ thiên nhiên ở Ba Lan Bảo vệ thiên nhiên ở Ba Lan - được hiểu là hệ thống pháp luật, các hình thức bảo vệ và các hoạt động bảo vệ thiên nhiên được thực hiện ở Ba Lan.

Lịch sử bảo vệ thiên nhiên ở Ba Lan

nhỏ|Săn bắn hải ly bị hạn chế từ thế kỷ 11 nhỏ| [[Vườn quốc gia Białowieża là một trong những công viên quốc gia lâu đời nhất trên thế giới ]] Các hạn chế pháp lý đầu tiên, ngày nay được hiểu là các quy định bảo vệ thiên nhiên, xuất hiện khi bắt đầu có nhà nước Ba Lan. Tuy nhiên, ban đầu, chúng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của các vị vua và phần lớn để bảo vệ cho các tài nguyên có giá trị cao và quý hiếm. Trải qua nhiều thế kỷ, cùng với sự phát triển trong văn hóa nhận thức, bảo vệ thiên nhiên còn được thực hiện vì các mục đích bảo tồn, thẩm mỹ, lịch sử và khoa học.

Vào thế kỷ 11, vua Bolesław I Chrobry ra lệnh hạn chế săn bắn hải ly . Các tài liệu Ba Lan lâu đời nhất liên quan đến việc hạn chế khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên là Quy chế Wiślicki (1347), quy định hình phạt cho chặt hạ cây sồi và cây ăn quả trong rừng. Vào triều đại của Władysław Jagiełło, các hạn chế trong việc phát quang và xuất khẩu gỗ thủy tùng đã được đưa ra . Năm 1523, Zygmunt Stary đã ra các quy định để tiêu chuẩn hóa việc bảo vệ bò rừng, hải ly, chim ưng và thiên nga. Năm 1578, Stefan Bigate đã ban hành một nghị định quy định cấm sử dụng một số loại công cụ để bắt cá trong thời kỳ sinh sản của chúng, kể cả lưới mắt nhỏ .

Ở Ba Lan, các hoạt động nhằm bảo tồn thiên nhiên có truyền thống lâu đời bắt nguồn từ thời Trung cổ. Nhưng chỉ đến thế kỷ 20, các hoạt động được lên kế hoạch dựa trên các nguyên tắc khoa học mới được thực hiện trên quy mô lớn hơn. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, năm 1919, Ủy ban bảo tồn thiên nhiên tạm thời của Bộ Tôn giáo và Giáo dục công cộng được thành lập. Năm 1926, cơ quan này đã được chuyển đổi thành Hội đồng Bảo tồn Thiên nhiên, đại diện là Giáo sư Władysław Szafer

Sau khi Thế chiến I kết thúc, có 39 khu bảo tồn thiên nhiên ở Ba Lan (tổng diện tích bề mặt là 1469 hec-ta). Do kết quả các hoạt động tích cực của Hội đồng Bảo tồn Thiên nhiên và các cộng tác viên trong thời kỳ chiến tranh mang lại, động thái đầu tiên về bảo tồn thiên nhiên ở Ba Lan (1934) đã được thông qua. 4.500 công trình kỷ niệm tự nhiên và 180 khu bảo tồn được thành lập. Cho đến năm 1939, sáu công viên quốc gia được thành lập- Białowieski (1932), Pieniński (1932), Wielkopolska, Babiogórski và Tatrzański và Công viên quốc gia ở Czarnohora, Đông Carpathians. Tuy nhiên, do diện tích nhỏ và thiếu sự quản lý phù hợp, chúng chưa đạt đủ tiêu chuẩn hiện tại của một công viên quốc gia :

  • duy trì sự ổn định của hệ sinh thái và tính bền vững của các quá trình sinh thái
  • bảo tồn đa dạng sinh học, bao gồm đảm bảo tính liên tục của tất cả các loài thực vật, động vật và nấm cùng với môi trường sống của chúng
  • bảo vệ các giá trị cảnh quan, cây xanh trong thành phố và làng mạc
  • duy trì hoặc khôi phục môi trường sống tự nhiên cũng như các tài nguyên, sinh vật và các yếu tố tự nhiên khác về trạng thái bảo tồn thích hợp
  • bảo tồn di sản địa chất và cổ sinh vật
  • hình thành thái độ đúng đắn của con người đối với thiên nhiên thông qua các hoạt động giáo dục, thông tin và quảng cáo

Những lý do bảo vệ thiên nhiên quan trọng nhất bao gồm:

  • thẩm mỹ (giải trí) - để chiêm ngưỡng,
  • kinh tế - để có được nguyên liệu thô và phát triển kinh tế,
  • khoa học tự nhiên - nghiên cứu các loài cho thế hệ trẻ; nghiên cứu y dược
  • xã hội - để nghỉ ngơi
  • lịch sử và khoa học - cho các thế hệ sau này.

Cơ sở pháp lý

Một số cơ sở pháp lý bảo vệ thiên nhiên ở Ba Lan gồm có :

  • Đạo luật ngày 10 tháng 3 năm 1934 về Bảo vệ Thiên nhiên .
  • Quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục ngày 21 tháng 4 năm 1947, được ban hành với sự tham khảo ý kiến của các Bộ trưởng về đăng ký các cá thể tự nhiên và công nhận chúng nằm trong diện được bảo vệ .
  • Đạo luật ngày 7 tháng 4 năm 1949 về Bảo tồn Thiên nhiên .
  • Đạo luật ngày 16 tháng 10 năm 1991 về bảo vệ thiên nhiên
  • Đạo luật ngày 6 tháng 7 năm 2001 về bảo tồn đặc tính quốc gia về tài nguyên thiên nhiên chiến lược của đất nước .
  • Đạo luật ngày 16 tháng 4 năm 2004 về bảo vệ thiên nhiên .