✨Andrew J. Evans Jr.

Andrew J. Evans Jr.

Andrew Julius Evans Jr. (11 tháng 11 năm 1918 – 25 tháng 12 năm 2001) là một thiếu tướng Không quân Hoa Kỳ và phi công ách, ông đã bắn phá hủy sáu máy bay quân địch trong trận không chiến và hai máy bay địch trên mặt đất trong Thế chiến II. Ông còn phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên, ông thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu trước khi bị bắt làm tù binh. Sau khi được trả tự do, ông thực hiện nhiệm vụ trong Chiến tranh Việt Nam trước khi giải ngũ vào năm 1973.

Đầu đời

Evans sinh ngày 11 tháng 11 năm 1918 tại Charleston, South Carolina. Sau khi tốt nghiệp trung học Columbus ở Columbus, Georgia, ông theo học tại The Citadel ở Charleston. Năm 1937, ông theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point và tốt nghiệp năm 1941 với bằng cử nhân khoa học và được sắc phong hàm thiếu úy.

Binh nghiệp

Thế chiến II

thumb|left|Evans' P-51 Mustang 'Little Sweetie 4' Sau khi tốt nghiệp tại West Point, Evans tham gia khóa huấn luyện phi công của Quân đoàn Không quân Hoa Kỳ tại phi trường Randolph, Texas. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện này, ông là phi công điều khiển chiếc P-39 Airacobra ở Iceland. Sau khi trở về Hoa Kỳ, ông chỉ huy Phi đoàn Chiến đấu số 533 và 448, điều khiển chiếc P-47 Thunderbolts. Ông theo học Đại học Chỉ huy và Tham mưu ở Fort Leavenworth, Kansas, trước khi được chỉ định vào Liên đoàn chiến đấu số 357 tại RAF Leiston ở Anh tại Mặt trận Tác chiến Châu Âu vào mùa thu năm 1944. Khi điều khiển chiếc P-51 Mustang trong trận không chiến, ông bắn hạ chiếc Focke-Wulf Fw 190 trên bầu trời Magdeburg, Đức, vào ngày 27 tháng 11 năm 1944, đây là chiến công đầu tiên của ông. Ngày 14 tháng 1 năm 1945, ông bắn hạ 4 chiếc Fw 190 trên bầu trời Berlin, Đức, với tổng số 57½ máy bay tiêm kích Đức bị các phi công chiến đấu thuộc Phi đoàn số 357 bắn hạ. Chiến công cuối cùng của ông trong chiến tranh là chiếc Messerschmitt Bf 109 trên bầu trời Gütersloh, Đức, vào ngày 24 tháng 3 năm 1945, nâng tổng số chiến công lên sáu.

Giữa chiến tranh

Sau khi Thế chiến II kết thúc, Evans được chỉ định trở thành tư lệnh của Liên đoàn chiến đấu số 357 khi đóng quân tại Neubiberg, Đức. Năm 1946, ông trở lại Hoa Kỳ và từ tháng 3 năm 1946 đến tháng 8 năm 1947, ông phục vụ bộ tham mưu của Đại học Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Maxwell, Alabama. Ông sau đó theo học tại Trường Tham mưu và Chỉ huy Không quân từ tháng 8 năm 1947 đến tháng 6 năm 1948. Sau đó ông phục vụ trong Bộ Tổng Tham mưu tại Tổ chức Tham mưu trưởng Liên quân ở Washington, D.C., từ tháng 6 năm 1948 đến tháng 6 năm 1950. Sau đó, ông trở thành sĩ quan điều hành của Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ, từ tháng 7 năm 1950 đến tháng 7 năm 1951, rồi được bổ nhiệm làm đại tá vào tháng 1. Từ tháng 8 năm 1951 đến tháng 6 năm 1952, ông theo học tại Đại học Chiến tranh Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Maxwell, Alabama.

Hậu chiến

Sau khi Evans quay về Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1953, ông trở thành giảng viên tại Đại học Chiến tranh Không quân. Vào tháng 1 năm 1956, ông trở thành tư lệnh của Liên đoàn chiến đấu số 414 tại Oxnard, California, được trang bị F-89 Scorpions. Từ tháng 1 năm 1957 đến tháng 9 năm 1959, ông là phó tư lệnh Khu phòng không New York tại Căn cứ Không quân McGuire, New Jersey, ông điều khiển hai chiếc F-89 và F-101 Voodoos. Nhiệm vụ kế tiếp của ông vào tháng 7 năm 1960 với tư cách là tư lệnh Sư đoàn Không quân số 65 tại Căn cứ Không quân Torrejon ở Tây Ban Nha, ông điều khiển chiếc F-102 Delta Daggers. Trên cương vị này, ông chịu trách nhiệm chỉ đạo chung nhiệm vụ huấn luyện và phòng không với tư lệnh phòng không Tây Ban Nha.

Chiến công

Huân chương

Huân chương được trao gồm: